Phật Pháp Vấn Đáp về Xuất Gia - Tại Gia Tu Hành
Đáp: Điều này thực sự rất khó để thực hiện! Gia đình là một xã hội nhỏ, đặc biệt là trong xã hội hiện đại, vấn đề gia đình rất nhiều. Gia đình theo hệ thống tông pháp thời xưa tuy có nhược điểm, nhưng so với gia đình kiểu mở hiện đại thì nhược điểm ít hơn. Bạn hỏi cái nào tốt hơn, thật khó để nói vì không có tiêu chuẩn tuyệt đối. Tốt hơn là nhìn từ quan điểm nhân quả của Phật pháp, vì đó mới là cách giải quyết vấn đề thực sự, tránh được sự khác biệt trong quan điểm và có được câu trả lời viên mãn. Bởi vì dù bạn ở trong xã hội nào, sống theo lối sống nào, cũng không thể thoát khỏi định luật nhân quả.
Do đó, nếu muốn thoát khỏi phiền não và vô minh trong gia đình, nhất định phải theo giáo lý của Phật, quan trọng nhất là “nhẫn nhục”. Trong sáu ba-la-mật của Bồ-tát, gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ, rất quan trọng.
“Bố thí” trong sáu ba-la-mật là hy sinh và cống hiến, phục vụ gia đình mà không mong nhận lại. “Trì giới” là tuân thủ pháp luật, trong nhà có quy tắc, làm việc gì cũng có trật tự, quy củ, không lộn xộn. “Nhẫn nhục” là có sự kiên nhẫn, biết nhường nhịn. “Tinh tấn” là mỗi ngày cố gắng tiến bộ, hôm nay tốt hơn hôm qua, ngày mai tốt hơn hôm nay. “Thiền định” là giữ được sự bình tĩnh, không dễ dàng bị dao động bởi hoàn cảnh bên ngoài. Như vậy, bạn có thể thoát khỏi phiền não, tránh được những việc phức tạp. Cuối cùng là “trí tuệ“, có trí tuệ thì có thể phá vô minh, trong cuộc sống, công việc, giao tiếp, đối diện với những hiện tượng phức tạp, bạn sẽ hiểu rõ ràng, không bị mê lầm, tức là phá vô minh. Mọi việc làm đều chu đáo, viên mãn, tự nhiên không sinh phiền não. Vì vậy, sáu nguyên tắc tu hành của Bồ-tát cũng là nguyên tắc sống của chúng ta, rất hiệu quả!
Những lý luận và phương pháp này rất sâu rộng, đặc biệt là trong “Đại Bát Nhã Kinh”, được giải thích rất thấu đáo. Nhưng “Đại Bát Nhã Kinh” có dung lượng quá lớn, người bình thường khó đọc tụng. Các bậc đại đức xưa cũng nhận ra vấn đề này, nên đã làm một bản tóm lược, trích dẫn những đoạn kinh quan trọng, tránh lặp lại và phức tạp, giản hóa thành mười quyển, gọi là “Đại Bát Nhã Kinh Cương Yếu”, do cư sĩ Cát Huệ biên soạn trong thời nhà Thanh, triều đại Càn Long. Nếu có thể theo lý luận và phương pháp trong kinh này mà tu hành, vấn đề của bạn sẽ được giải đáp, điều này rất hữu ích cho cuộc sống và công việc của chúng ta.
Đáp: Thế Tôn trong kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta rằng, bất cứ người tu hành nào, dù tu học pháp môn nào, khi công phu đạt được chút thành tựu thì nhất định sẽ có cảnh giới hiện ra. Khi cảnh giới hiện ra thì nên đối phó như thế nào? Kinh Phật dạy chúng ta một nguyên tắc là không cần để ý đến nó, thì cảnh giới này sẽ là cảnh giới tốt. Nếu bạn để ý đến nó, sinh ra phân biệt chấp trước, thì cảnh giới này sẽ trở thành ma cảnh, cản trở tâm thanh tịnh của bạn. Không để ý đến thì không có vấn đề gì. Thiền tông nói “ma đến thì chém ma, Phật đến thì chém Phật”, ý nghĩa của “chém” ở đây là không để ý đến tất cả, ma đến cũng không để ý, Phật đến cũng không để ý, giữ cho tâm mình thanh tịnh, đó là đúng.
Đáp: Việc này rất khó nói, nói ra sẽ đắc tội với người khác. Điều này cần dựa vào trí tuệ của bạn, cần bạn quan sát kỹ lưỡng xem người xuất gia tu hành có thực sự tu hành đúng pháp không. Nếu thực sự tu hành đúng pháp, bảo hộ và cúng dường sẽ có phước báo lớn, điều này là thật sự. Những ngày gần đây mọi người đã nghe một số bài giảng về kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, mặc dù chưa nghe hết, nhưng sau này chúng tôi sẽ giảng hết và có đĩa VCD, quý vị sẽ có thể xem toàn bộ. “Tu hành” là sửa đổi những hành vi sai lầm của mình. Nếu có thể xa rời mười điều ác, một lòng hướng thiện, thân khẩu ý ba nghiệp đều tu theo Thập Thiện Nghiệp Đạo, đó là người tu hành thực sự. Nếu không tu theo phương pháp này, thì không phải là người tu hành. Không chỉ chúng ta nhìn người khác, quan trọng nhất là chính mình phải chịu tu, nếu mình không chịu tu nghiêm túc thì cũng không có cách nào quan sát người khác có thực sự tu hành hay không.
Còn về hoàn cảnh nào có thể cúng dường? Là khi người đó thiếu thốn thì nhất định phải cúng dường, khi người đó gặp khó khăn thì phải giúp đỡ, không cần phải thêm hoa trên gấm. Nếu đời sống của người đó đã rất tốt, cúng dường thêm thường sẽ gây ra lỗi lầm. Chúng ta cần hiểu rằng, trong hoàn cảnh tu hành kham khổ, người đó thường còn một chút tâm đạo, nhưng khi danh lợi đến, tâm đạo sẽ mất, lòng tham sẽ nổi lên, chúng ta sẽ làm hại người tu hành. Vì vậy, Phật dạy cư sĩ tại gia rằng cúng dường cho người xuất gia chỉ giới hạn trong bốn việc, gọi là bốn sự cúng dường. Thứ nhất là “ẩm thực”, người đó cần ăn uống, không có gì ăn, chúng ta tặng một ít đồ ăn cho người đó. Thứ hai là “y phục”, người đó không có quần áo mặc, chúng ta tặng một bộ quần áo, không cần tặng nhiều, tặng nhiều sẽ làm phát sinh lòng tham. Thứ ba là “ngọa cụ”, ban đêm không thể không ngủ, ngủ cần có ngọa cụ. Thứ tư là “y dược”, khi người đó bệnh, cúng dường thuốc men. Bốn sự cúng dường này là đúng pháp.
Nhưng hiện nay, nhiều người cúng dường bằng tiền bạc, cúng dường tiền bạc rất đáng sợ, tiền càng nhiều, lòng tham càng nặng, tâm đạo hoàn toàn mất, như kinh Phật nói “tích tài tán đạo”. Loại cúng dường này đẩy người xuất gia vào ba đường ác, điều này là chúng ta làm sai. Nhưng người xuất gia đối với tất cả sự cúng dường không thể không nhận, đây là Phật nói phải có tâm từ bi làm ruộng phước cho tất cả chúng sinh. Nhưng chúng ta cần tự hỏi, chúng ta có thực sự đang đoạn ác tu thiện, có thực sự đủ tư cách làm ruộng phước cho chúng sinh? Người xuất gia chúng ta đã từng nghĩ đến điều này chưa? Nếu không phải là ruộng phước của chúng sinh, chúng sinh đến cúng dường chúng ta, chúng ta sẽ mắc nợ. Cổ nhân nói: “Thí chủ nhất lý mễ, đại như Tu Di sơn, kim sinh bất liễu đạo, bì mao đái giác hoàn.” Điều này là sự thật tuyệt đối.
Chúng ta hôm nay chọn pháp môn Tịnh Độ, nói cách khác, trong đời này nếu không vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tất cả những sự cúng dường của thí chủ đều trở thành nợ, đời sau kiếp sau, kiếp kiếp nối tiếp, gặp duyên nhất định phải trả nợ. Đạo lý và sự thật bên trong này, chúng ta cần hiểu rõ, cư sĩ tại gia mới biết cách cúng dường và bảo hộ, người xuất gia cũng mới biết cách nhận cúng dường. Tôi hiểu được đạo lý này, tôi cũng rất lo lắng và sợ hãi. Vì vậy, các bạn cúng dường cho tôi, tôi liền chuyển giao cúng dường cho cư sĩ lâm, cho hội Tịnh Tông. Các bạn đưa phong bì cho tôi, tôi không bao giờ mở ra xem, tất cả đều giao cho họ, vì sao? Vì sau này họ phải trả nợ, tôi không trả. Tôi nhận thì tôi phải trả, tôi chuyển giao cho họ, sau này là chuyện của họ, không phải của tôi. Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý này, làm mới đúng pháp.
Đáp: Cơ thể yếu đuối là nguyên nhân dẫn đến việc bị linh quỷ nhập thân. Linh quỷ thường tìm đến những người như vậy. Nếu cơ thể khỏe mạnh, dương khí thịnh, linh quỷ thấy cũng phải tránh xa, không dám đến gần. Vì vậy, việc chăm sóc cơ thể rất quan trọng. Việc chăm sóc cơ thể liên quan mật thiết đến tinh thần, và tinh thần lại liên quan đến tư tưởng. Con người cần giữ cho tâm niệm chính đáng, thiện lương thì dương khí sẽ đầy đủ. Nếu có nhiều vọng niệm, tạp niệm, cơ thể yếu đuối, quỷ thần thường tìm đến bạn. Nhưng việc này cũng phụ thuộc vào duyên, không có duyên thì linh quỷ cũng không dám nhập thân. Việc linh quỷ nhập thân dường như cần sự cho phép của bề trên quỷ thần, nếu không có duyên thì bề trên không đồng ý.
Nếu có xu hướng này, nhưng chưa thực sự bị nhập, chỉ có chút cảm ứng, thì việc này dễ xử lý. Như tôi đã nói, hãy luôn giữ cho mình những tâm niệm chính đáng. Mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật, nuôi dưỡng chính khí của mình, niệm niệm nghĩ đến chúng sinh đau khổ, không nghĩ đến bản thân. Nghĩ đến bản thân mà không quan tâm đến người khác là niệm xấu nhất, sẽ tiêu hao rất nhiều năng lượng. Niệm niệm nghĩ đến người khác, không nghĩ đến mình thì năng lượng sẽ tự bổ sung, không bị hao tán. Tâm lý khỏe mạnh sẽ ảnh hưởng đến sinh lý.
Vì vậy, bạn thấy trong chương trình “Tiểu viện Sơn Tây”, tôi đã nói rõ ràng, tại sao bệnh nan y niệm Phật lại khỏi, và không chỉ một người, mà có bốn mươi người, điều này không phải ngẫu nhiên. Ở Trung Quốc đại lục có rất nhiều trường hợp tương tự, tôi khuyên họ tiếp tục đi phỏng vấn. Là những trường hợp bác sĩ đã tuyên bố không thể chữa được, tức là chờ chết, trong hoàn cảnh này họ mới thực sự buông bỏ tất cả. Biết rằng không còn sống lâu, bác sĩ nói chỉ còn ba tháng, nghĩ rằng còn gì không thể buông bỏ? Thực sự buông bỏ, tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ rất khẩn thiết. Tại sao lại khỏi bệnh? Vì họ còn thọ mạng, họ không nghĩ “tôi có thọ mạng nhưng không cần”, không có niệm này, nên họ khỏi bệnh. Nếu thọ mạng đã đến, thì niệm sẽ ra đi, nếu còn thọ mạng thì vẫn còn sống.
Đây là điều tốt, làm gương cho mọi người, để mọi người hiểu. Hiểu rõ một đạo lý quan trọng là ý niệm có thể chữa bách bệnh. Hiện nay, sinh lý học giải thích rằng tại sao con người mắc bệnh? Vì các tế bào bên trong bị nhiễm virus, tế bào ban đầu bình thường, nhưng bây giờ mang virus, nhiều tế bào như vậy thì bạn sẽ mắc bệnh. Nếu các cơ quan quan trọng có nhiều tế bào virus thì thật sự nguy hiểm. Thuốc chỉ là để hóa giải virus trong tế bào, y học Trung Quốc gọi là giải độc, y học phương Tây gọi là tiêu độc. Tiêu độc có tâm rất tàn nhẫn, tiêu diệt tất cả. Tiêu diệt, tế bào xấu, tế bào virus bị tiêu diệt, tế bào tốt cũng bị tiêu diệt, nên gây ra tác dụng phụ. Tác dụng phụ là vì thế, tốt xấu đều bị tiêu diệt, nên không phải cách tốt. Y học Trung Quốc là khôi phục lại bình thường, hy vọng tế bào mang virus trở lại bình thường, nên thuốc của Trung Quốc là nhẹ nhàng.
Bạn thực sự hiểu đạo lý này, ý niệm làm cho tế bào virus trở lại bình thường là hiệu quả nhất, không có tác dụng phụ nào. Phật nói rằng chúng ta, phàm phu có tham sân si mạn, tham sân si gọi là ba độc, nên ai cũng có độc trong người, chỉ là nhẹ hay nặng. Nếu tham sân si mạn nặng, virus bên ngoài dễ lây nhiễm, nếu tâm thanh tịnh, ba độc phiền não bên trong nhẹ, thì virus bên ngoài khó lây nhiễm. Nếu lây nhiễm, hãy nỗ lực tu thiện, đoạn ác tu thiện, khôi phục tâm thanh tịnh, tế bào virus sẽ trở lại bình thường, bệnh sẽ hết. “Tiểu viện Sơn Tây” niệm Phật là đạo lý này, không phải không có lý. Họ dùng tâm chân thành, thanh tịnh niệm.
Người học Phật nói cảm ứng, Phật Bồ Tát cảm ứng, Phật Bồ Tát gia trì, Phật Bồ Tát cảm ứng thế nào? Gia trì thế nào? Chính là đạo lý này. Bạn hiểu đạo lý này sẽ biết, chúng ta theo lời dạy của Phật Bồ Tát mà làm, là Phật gia trì, Phật bảo hộ. Phật dạy chúng ta dùng tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng sẽ hóa giải tế bào virus, khôi phục bình thường. Cuối cùng vẫn là tự độ, nhưng phương pháp là Phật dạy, điều này là thật. Chỉ cần thân tâm khỏe mạnh, lo lắng bị nhập sẽ không còn, bạn sẽ không có xu hướng bị nhập thân.
Đáp: Khi đã bị các linh quỷ nhập thân, trong những năm gần đây, chúng tôi đã gặp nhiều trường hợp như vậy. Thật khó tưởng tượng khi một người có thể chứa đến hàng trăm linh quỷ trong thân thể, hiện tượng này rất đáng sợ! Chúng ta thấy người đó đau khổ vô cùng, vì tính tình của các linh quỷ không giống nhau, có cái muốn thế này, cái muốn thế khác, khiến người đó vô cùng rắc rối. Chúng ta thấy biểu cảm của họ thật sự rất khổ sở. Khi hóa giải, phần này nghe, phần kia không nghe, bạn nói làm sao để sống hòa hợp với hàng trăm chúng sinh này? May mắn là trong số đó có những kẻ đầu đàn, giống như có tổ chức, có những người đứng đầu, nhưng cũng có đến năm, sáu kẻ đầu đàn. Thật sự cần phải xoa dịu họ, khuyên nhủ họ. May mắn là những linh quỷ này cũng biết rằng việc làm cho người đó chịu khổ là không đúng, nhưng họ lại không ra được. Tại sao không ra được? Vì người đó quá căng thẳng, căng thẳng đến mức tất cả các thông đạo đều bị chặn, làm cho linh quỷ không thể ra được. Khi người đó có thể thả lỏng, linh quỷ mới có cơ hội ra ngoài, nhưng khi căng thẳng thì thông đạo lại bị bít kín. Vì vậy, cần phải hợp tác, giao tiếp và hóa giải với họ.
Đa số các linh quỷ này có mối quan hệ với người bị nhập thân qua bốn loại duyên, như là báo oán, đòi nợ, v.v. Điều quan trọng là phải niệm Phật, tụng kinh, lễ sám, và chính người bị nhập phải làm điều này, dùng công đức đó để hồi hướng cho các linh quỷ, phần lớn họ đều chấp nhận. Tuy nhiên, cần phải đặt ra thời hạn cụ thể, ví dụ như trong vòng ba mươi ngày, mỗi ngày tụng một bộ Kinh Địa Tạng, dùng ba mươi bộ Kinh Địa Tạng để hồi hướng cho họ. Đôi khi họ chấp nhận, sau một tháng thực sự họ sẽ ra đi. Hoặc niệm Phật, mỗi ngày niệm vài nghìn lần, niệm mười nghìn lần danh hiệu Phật, chuyên niệm vì họ, họ sẽ nhận được lợi ích. Một số linh quỷ muốn tìm nơi tu hành, nhưng không có chỗ, chúng ta có thể giới thiệu cho họ, giúp họ rời đi đến một nơi tốt hơn, họ cũng sẽ rời đi. Những phương pháp này là linh hoạt, không cố định. Vì vậy, nhất định phải hỏi họ tại sao nhập thân, hỏi họ từ đâu đến, là ai, từ đạo nào đến, mục đích gì, yêu cầu gì. Nếu chúng ta có thể đáp ứng yêu cầu của họ, họ sẽ ra đi. Thông thường họ sẽ nói rõ.
Đáp: Thật sự là không có cách nào, đó là gì? Nghiệp chướng quá nặng! Người có nghiệp chướng quá nặng, Phật Bồ Tát cũng không giúp được, chúng ta có gì khả năng? Vì vậy, bạn phải thường nghĩ đến điều này, Phật là đại từ đại bi mà cũng không giúp được. Chúng ta thật sự muốn giúp anh ấy, chỉ có cách là tự mình tu hành tốt, tu hành mười năm, năm năm sau, anh ấy thấy được hình ảnh tu hành tốt của chúng ta, có lẽ sẽ có sự thay đổi. Vì vậy, không thể chỉ nói, nhất định phải làm gương tốt, tại sao? So sánh sẽ rất rõ ràng, bạn ngày càng tiến bộ, anh ấy ngày càng sa sút. Phải dùng thân giáo, lời nói không hiệu quả, lời nói không ai nghe, mình thật sự làm được. Trong hình ảnh có tấm gương tốt, người thật sự tu hành, thân tâm vui vẻ, hạnh phúc; người không tu hành, thân tâm phiền não, lão hóa rất nhanh. Người tu hành không dễ lão hóa, mười năm, hai mươi năm so sánh sẽ khác rất xa, anh ấy nên sám hối, nên quay đầu; nếu vẫn không biết sám hối, không biết quay đầu, thì phía trước là ba ác đạo.
Vì vậy, phải có hình ảnh tốt, phóng quang chính là hình ảnh tốt, chúng ta giúp đỡ chúng sinh thế nào? Tự mình tu hành tốt, chính là giúp đỡ chúng sinh. Tự mình không tu hành tốt, hại mình cũng hại chúng sinh, người khác nhìn vào, thấy Phật môn như vậy, khiến nhiều người không dám bước vào Phật môn, khiến nhiều người phỉ báng Phật pháp. Lỗi lầm do phỉ báng Phật pháp, bạn phải chịu đựng, tại sao? Bạn làm gương không tốt, tội này rất nặng, chúng ta tự mình phá hoại hình ảnh Phật giáo.
Những điều này đều trong sinh hoạt hàng ngày, và rất khó phát hiện, điều này không thể không biết, đó là mình đầy lỗi lầm mà không biết. Làm sao để biết lỗi lầm của mình? Có phương pháp, nhìn người khác, người khác là tấm gương, thấy người khác làm sai, đừng trách mắng người khác, trở về nghĩ mình có không, bạn sẽ tìm ra lỗi lầm của mình. Vì vậy, thấy người khác làm không tốt, nghĩ mình cũng có, phải sửa đổi! Đừng trách mắng người khác, đừng chỉ trích người khác, đừng phê bình người khác, không được, mình phải sửa đổi. Thấy gương tốt của người khác, mình có không? Không có, phải học tập thật tốt, học từ họ. Bạn có thể học như vậy, đời này chắc chắn thành Phật, tại sao? Tất cả chúng sinh đều là thầy của bạn. Người thiện, học từ họ, người không thiện, kiểm điểm bản thân, phản tỉnh, sửa đổi lỗi lầm. Không ai không phải là thầy, không ai không phải là thiện tri thức, làm sao bạn không thành tựu?
Đáp: Hiện tượng này trong xã hội ngày nay dường như càng ngày càng nhiều, gặp được một vị chân chính thiện tri thức, người xưa thường nói đó là duyên phận, duyên phận này là khả ngộ bất khả cầu. Thật sự cầu thiện tri thức, chúng ta làm học sinh cầu thầy không dễ, thầy nói với tôi, thầy phải tìm một học trò thật sự giỏi càng khó hơn, thầy đi đâu tìm? Do đó, có thể thấy đây đều là duyên phận từ nhiều kiếp trước, trong kiếp này mới gặp, tam bảo gia trì làm tăng thượng duyên, gặp được. Gặp được rồi, thành bại then chốt ở hai chữ “thành kính”. Ấn Quang đại sư nói rất hay, một phần thành kính được một phần lợi ích, hai phần thành kính được hai phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích. Bạn đối với thầy phải chân thành, đối với thầy phải kính trọng, vì sao? Chân thành, kính trọng mới có thể tiếp nhận, lời thầy nói bạn mới y giáo phụng hành. Do đó biểu hiện của tâm chân thành chính là tu hành như giáo, bạn đối với thầy càng chân thành, lời thầy nói thật sự giống như thánh chỉ, bạn sẽ rất nỗ lực thực hiện, đây gọi là chân thành. Nếu lời thầy nói mà không muốn thực hiện, làm ngược lại, đó là không có chút thành ý nào. Người không có thành ý, không những không được lợi ích, lời thầy nói thực ra anh ta không hiểu, thật sự không hiểu. Vì vậy, học tập thế pháp và xuất thế pháp đều ở thành kính, Ấn Tổ nói hai chữ này thật quá hay, thật sự là then chốt.
Đặc biệt là trong thời kỳ mạt pháp, thiện tri thức càng ngày càng ít. Chân chính thiện tri thức không chịu thừa nhận mình là thiện tri thức, “tôi học ít, không đáng để các bạn học”, liền từ chối ngay. Nếu người ấy nói tôi rất giỏi, cái gì cũng biết, cái gì cũng thông, theo tôi học, người này không đáng tin cậy. Chân chính thiện tri thức thật sự rất khiêm tốn. Tôi theo thầy Lý, thầy Lý đã nói với tôi bao nhiêu lần, thầy nói năng lực của tôi chỉ có thể dạy bạn năm năm, năm năm sau thì không dạy được nữa. Khiêm tốn! Không dạy được tôi thì làm sao? Tìm Ấn Quang đại sư. Ấn Quang đại sư không còn, “Văn Sao” còn. Bạn ngày ngày đọc “Văn Sao”, y giáo phụng hành, bạn chính là học trò của Ấn Quang đại sư. Đây là dạy học của chân chính thiện tri thức, cũng là chỉ ra một con đường sáng cho chúng ta.
Hiện nay nếu chúng ta không nhận ra thiện tri thức, không tìm được thiện tri thức, phải làm sao? Tìm người xưa, người xưa gần chúng ta nhất là Ấn Quang đại sư. Chúng ta muốn học “Kinh Di Đà”, Ấn Quang đại sư “Yếu Giải” tốt, chuyên học “Yếu Giải”, chính là y theo Ấn Quang đại sư làm thầy; chuyên học “Sớ Sao”, chính là y theo Liên Trì đại sư làm thầy, nhất định thành tựu, giống như ở trước mặt thầy không khác. Thật sự là y giáo phụng hành, đọc sách của người, y theo lời dạy của người, nỗ lực học tập, đây gọi là tư thục đệ tử. Ở Trung Quốc người đầu tiên là Mạnh Tử, Mạnh Tử học Khổng Tử, chưa từng gặp mặt. Mạnh Tử cầu học, Khổng Tử đã qua đời, chưa từng gặp mặt, nhưng thành tựu học tập của Mạnh Tử vượt qua tất cả học trò của Khổng Tử. Bạn thấy hiện nay chúng ta nói đến Nho gia, nói Khổng Mạnh, không nói Khổng Nhan, không nói Khổng Tăng, Tăng Tử, Nhan Tử đều không nhắc đến, Khổng Mạnh. Thành tựu học tập của Mạnh Tử vượt qua tất cả học trò của Khổng Tử lúc bấy giờ, lý do này bạn phải hiểu, bạn sẽ tìm được thiện tri thức.
Ngày nay chúng ta học Phật, tôi giới thiệu với mọi người, thầy Lý giới thiệu tôi học Ấn Quang đại sư; tôi giới thiệu mọi người, các bạn học A Di Đà Phật, tôi giới thiệu bạn là “Kinh Vô Lượng Thọ”, thầy là A Di Đà Phật. Bạn theo Ngài học, làm sao sai được? “Kinh Vô Lượng Thọ” là Hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, nhất định không nghi ngờ, bạn nghi ngờ, đó là sai lầm lớn. Chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ rất hay, thật sự công phu tu hành cả đời của cụ đều ở trong chú giải đại kinh này. Quyển này tôi đã giảng nhiều lần, hình như lần đầu tiên, hai, ba lần đầu, tôi chưa thấy chú giải của lão cư sĩ Hoàng, tôi dựa vào “Mi chú” của thầy Lý. Thầy giảng qua một lần, chính là bên cạnh kinh văn chú mấy chữ, lượng không nhiều, tôi dựa vào “Mi chú” của thầy Lý để giảng. Sau này thấy chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, tôi rất khâm phục, tôi biết công phu cả đời của cụ đều ở trong cuốn sách này, rất hiếm có. Vì vậy sau mấy lần giảng đều dùng chú giải của lão cư sĩ Hoàng. Đây là thời kỳ mạt pháp chúng ta làm sao tìm thiện tri thức.
Thời kỳ mạt pháp tu hành, thật sự thành tựu không ở đạo tràng, đạo tràng đông người, tâm loạn, miệng nhiều, thường sinh ra chướng ngại. Vì vậy tu hành thật sự là bạn tự mình biết dụng công, mỗi ngày đọc kinh niệm Phật, không tiếp xúc với người khác, tiếp xúc với người khác thị phi rất nhiều. Tôi có thể giữ được tâm thanh tịnh, là hơn bốn mươi năm không xem tivi, không đọc báo chí, tạp chí, radio đều không tiếp xúc. Tại sao? Đều là ô nhiễm. Bạn xem xong, bạn có năng lực không để lại ấn tượng trong lòng? Không có năng lực này, vậy thì phải từ chối, mới giữ được tâm thanh tịnh.
Có thời gian thì đọc kinh Phật, đọc kinh Phật chính là giao tiếp với Phật, nghe giáo huấn của Phật, bạn sẽ không sai lầm. Nghe lâu rồi, mắt bạn cũng phóng quang, chúng ta mấy ngày qua nói về phóng vô lượng quang, phóng quang là gì? Bạn nhìn người, nhìn sự việc rất rõ ràng. Nhìn rất rõ ràng, có khi người ta làm sai việc cũng không thể nói, tại sao? Tâm lượng của họ rất nhỏ, không thể chịu phê bình, bạn vừa nói, kết thù oán. Sai cứ để họ sai, đọa địa ngục cứ để họ đọa, đợi tội địa ngục chịu xong rồi mới độ họ, không muộn. Bạn nói bây giờ? Bây giờ không được, thời tiết nhân duyên chưa đến, ngược lại tạo thêm phiền phức, đó là trí tuệ. Họ chịu đủ khổ rồi, họ trở về cầu giúp đỡ, bạn nói họ nghe; chưa chịu khổ, chưa vào địa ngục khổ, bạn khuyên sao cũng không tin. Họ còn nói bạn lắm lời, họ còn nói bạn châm chọc họ, bạn tốt bụng đối đãi họ, họ dùng tâm ác tưởng tượng, biến sự tốt của bạn thành xấu. Điều này chúng ta phải hiểu, điều có thể nói thì nói, không thể nói thì tuyệt đối không nói.
Đáp: Vấn đề này cần có sự nhẫn nại. Trong “Kinh Kim Cang” nói rằng “nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn”, bạn phải có thể nhẫn, đối với chúng ta mà nói là cần có sự nhẫn nại, không nên vội vàng, tiến hành tuần tự. Bạn là học sinh, mười sáu tuổi là thời gian học hành, học nghiệp cũng rất quan trọng. Nếu học Phật mà bỏ bê học nghiệp, Phật cũng không đồng ý. Bạn hỏi tại sao Phật không đồng ý? Học Phật là việc tốt, tại sao Phật không đồng ý? Vì điều đó sẽ khiến xã hội đại chúng chỉ trích “bạn thấy không, Phật giáo phá hoại gia đình, phá hoại học nghiệp, phá hoại tương lai của bạn, làm sao có thể học Phật được?” Điều này sẽ phá hoại hình ảnh của Phật giáo, cho nên Phật pháp không cho phép. Trừ khi bạn phát tâm xuất gia, gia đình cha mẹ đều đồng ý, bạn không đi học nữa, thì đó là chuyện khác. Đã là học sinh, nhất định phải đặt học nghiệp lên hàng đầu, còn học Phật đặt ở vị trí thứ hai, thứ tự này phải rõ ràng.
Trong thời gian học sinh, thậm chí sau khi bạn tốt nghiệp bước vào xã hội, bạn làm việc hoặc kinh doanh, lúc này học Phật cần chú ý là phải nghe nhiều. Có thời gian thì nghe, bận rộn thì có thể tạm gác lại, có thời gian thì nghe nhiều, xây dựng niềm tin. Yêu cầu hiểu đúng đắn, tức là trong Phật pháp nói “tín, giải”, chú trọng vào tín và giải. Khi nào chúng ta mới thật sự thực hành? Khi bạn từ bỏ công việc, có lẽ là sau trung niên, bạn giao lại công việc cho con cái, giao lại cho chúng, lúc này mới được. Như cư sĩ Hoàng đến từ Singapore hôm trước, ông ấy kinh doanh khách sạn, có lẽ ở nhiều nơi đều mở chuỗi khách sạn. Hiện nay đã ngoài sáu mươi, giao lại tất cả công việc cho con cái, không còn quản lý nữa, lúc này được. Lúc này có thể dốc sức vào hành và chứng. Khi còn nhiều công việc, bạn chỉ cần giữ vững niềm tin và hiểu biết là được. Học Phật như vậy khiến xã hội đại chúng nhìn vào cũng rất hoan hỉ, đó là đúng đắn.
Hiện nay bạn đang học hành, học Phật, trong trường học hành tốt, phẩm hạnh tốt, làm gương cho bạn bè, là Bồ Tát trong hàng học sinh. Nên thực hiện điều gì? Thực hành chính là thực hiện “Đệ Tử Quy”, đối với Phật pháp, nghe nhiều, hiểu nhiều, niềm tin không thoái lui. Đó chính là trong giai đoạn hiện tại của bạn, học như vậy mới đúng.
Đáp: Phương pháp này có thể áp dụng không? Tôi trả lời là có thể. Tại sao có thể? Bởi vì bạn tin tưởng. Bạn tin vào sự gia trì của thầy, tin rằng viên cam lộ được thầy trì chú rất linh, bạn tin thì linh, không tin thì không linh, vẫn là một câu nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng mà sinh.” Nắm vững nguyên lý này, vấn đề sẽ được giải quyết.
Sự gia trì của thầy, chú của thầy có linh không đều dựa vào niềm tin của bạn. Bạn có một phần niềm tin, nó sẽ có một phần linh nghiệm; bạn có mười phần niềm tin, nó sẽ có mười phần linh nghiệm; bạn nghi ngờ, nó hoàn toàn không linh. Như vậy, bạn sẽ hiểu rằng, không phải do vật linh hay không linh, mà do tâm của chúng ta có linh hay không. Không chỉ có vậy, tôi đã nói nhiều lần, khi bạn bị bệnh đi khám bác sĩ, bạn uống thuốc, bệnh của bạn có khỏi hay không không liên quan đến bác sĩ, không liên quan đến thuốc. Liên quan đến gì? Niềm tin, bạn có niềm tin vào bác sĩ, có niềm tin vào đơn thuốc của bác sĩ. Điều gì đã chữa khỏi bệnh của bạn? Niềm tin đã chữa khỏi bệnh của bạn. Bác sĩ dù có tài giỏi đến đâu, bạn nghi ngờ, không tin tưởng, uống thuốc của họ cũng không có tác dụng.
Trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói: “Tin là nguồn công đức của đạo, nuôi dưỡng tất cả các gốc thiện.” Bạn cần phải xây dựng được niềm tin vào chính mình. Phật giáo nói về “tin” khác với các tôn giáo khác, niềm tin trong Phật giáo, đầu tiên là tin vào chính mình, tin vào bản thân mình, thứ hai là tin vào thầy, bạn sẽ thuận buồm xuôi gió. Tin vào bản thân, nhưng không tin vào thầy, thì không thể thành tựu; tin vào thầy, nhưng không tin vào bản thân, cũng không thể thành tựu. Ấn Quang Đại sư trong “Di Đà Yếu Giải” nói về sáu niềm tin: thứ nhất là tin vào bản thân; thứ hai là tin vào người khác, tức là tin vào thầy, tin vào Phật; thứ ba là tin vào sự việc; thứ tư là tin vào lý; thứ năm là tin vào nhân; thứ sáu là tin vào quả. Thế giới và Phật pháp, bạn nắm vững sáu niềm tin này, tất cả vấn đề sẽ được giải quyết.
Chúng ta bị bệnh có cần tìm bác sĩ không? Không cần tìm bác sĩ. Nếu bệnh nặng, sau này nếu có vấn đề gì xảy ra, họ sẽ nói bạn hại họ, rõ ràng cần bác sĩ mà bạn lại bảo họ không cần tìm bác sĩ. Vì vậy, chúng ta không thể làm như vậy, chúng ta chỉ có thể giải thích rõ ràng nguyên lý này, bạn đi tìm bác sĩ mà bạn tin tưởng, bác sĩ sẽ tạo duyên tăng thượng, nhân duyên thật sự là bạn. Bạn thực sự hiểu “dứt hết thảy ác, làm hết thảy thiện”, tốt! Đây mới là thực sự tiêu tai, thực sự tiêu nghiệp chướng. Bệnh tật và nghiệp chướng có liên quan mật thiết với nhau, nghiệp chướng tiêu trừ, bệnh tật tự nhiên giảm bớt. Vì vậy, cần nuôi dưỡng lòng từ bi, quyết không làm hại chúng sinh, tai nạn của bạn sẽ giảm bớt. Khổ vui không đến từ ngoại cảnh, đều do chính mình chiêu cảm, đây là lời Phật nói thật trong kinh luận, là chính lý.
sống có khó khăn thế nào, bạn vẫn sẽ hạnh phúc. Phương hướng và mục tiêu mỗi người khác nhau. Như hai tuần trước, cư sĩ Hoàng Trung Xương ở Thâm Quyến đã vãng sinh, ông cũng có phương hướng và mục tiêu. Ông làm gì? Ông làm gương cho mọi người thấy, niệm Phật ba năm, thực sự niệm Phật ba năm, có thể vãng sinh không? Làm một thử nghiệm cho mọi người xem. Thực sự là thật, không phải giả, nhưng ba năm đó phải tu hành đúng pháp. Ông thực sự buông bỏ, thân tâm thế giới thực sự buông bỏ, ba năm không nói chuyện, đó là trợ duyên rất tốt. Nói chuyện tâm sẽ loạn, ông không nói chuyện với người khác, người khác cũng không nói chuyện với ông, như vậy tu tâm thanh tịnh dễ dàng hơn.
Điều kiện đầu tiên để vãng sinh, Tây Phương là tịnh độ, trong giáo lý Đại thừa nói rất nhiều, “Tâm tịnh thì Phật độ tịnh”, tâm bạn không thanh tịnh, làm sao có thể vãng sinh? Niệm danh hiệu Phật này, công đức của danh hiệu Phật là gì? Là xóa bỏ hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của bạn, đạt được tâm thanh tịnh. Vọng niệm nhiều, tập khí nặng, niệm vừa khởi lên, một câu “A Di Đà Phật” đè xuống, mỗi ngày đều làm việc này. Nếu bạn không buông bỏ được danh lợi của thế gian, phân biệt, chấp trước thì không có cách nào. Bên này đè xuống bên kia lại nổi lên, đừng nói ba năm không thành công, ba mươi năm cũng không thành công, lý do nằm ở chỗ này. Vì vậy, nhất định phải buông bỏ triệt để. Bạn đang đè là tập khí quá khứ, khi tập khí nổi lên, danh hiệu Phật đè xuống, khống chế. Có hai, ba năm, thực sự khống chế được, khống chế được thì có cảm ứng, có cảm ứng với A Di Đà Phật, tâm bạn thanh tịnh.
Vậy làm sao để cảm ứng? Không cần cầu, không cần cầu, tâm tôi thanh tịnh, Phật biết, bên kia là tịnh độ, chắc chắn sẽ đến đó. Chúng sinh có cảm, Phật Bồ Tát sẽ ứng, cảm này không phải là tôi ngày ngày cầu nguyện, nơi này quá khổ, cầu Phật đến giúp đỡ, cứu tôi, tôi muốn đến Tây Phương Cực Lạc để hưởng phúc. Tâm niệm này không được, tâm niệm này không thanh tịnh, tâm địa không thanh tịnh. Nhất định phải biết, tâm thanh tịnh chính là cảm ứng, một niệm tương ứng một niệm Phật, lý do nằm ở chỗ này. Vì vậy nhất định phải tu tâm thanh tịnh, dùng phương tiện niệm Phật để xóa bỏ vọng tưởng, tạp niệm trong tâm, đó chính là công phu niệm Phật. Vì vậy niệm Phật không được nghi ngờ, không được xen tạp, không được gián đoạn, chỉ cần bạn làm được ba điều này, công phu sẽ thành tựu.
Người trẻ tuổi, phương hướng, mục tiêu của bạn là gì? Thấy thế gian này quá khổ, muốn sớm cầu vãng sinh, tâm niệm này có phải là trốn tránh không? Bạn đến thế gian này, Phật nói rất rõ, bạn đến để hưởng phúc, hay đến để chịu tội, đó là nghiệp báo của bạn, nhân sinh trả nghiệp. Dĩ nhiên, tôi có phúc tôi cũng không muốn hưởng, tôi có tội tôi cũng không muốn chịu, thực sự buông bỏ cả hai, cầu vãng sinh, đó cũng là một con đường. Nhưng bạn thấy thế gian này khổ, nếu bạn có thể phát tâm đại thừa, tôi muốn làm gương tốt để giúp đỡ chúng sinh thế gian này, đó chính là tâm Bồ Tát, không giống nhau.
Bất kể là xã hội đại chúng, trong kiến giải, tư tưởng, ngôn hành có sai lầm gì, chúng ta biết rồi, hãy tự phản tỉnh xem mình có không. Nếu không có, rất tốt, phải giữ gìn; nếu có, nhanh chóng sửa chữa, bắt đầu từ bản thân, đó chính là tu hành. Tu là sửa, hành là hành vi sai lầm, sửa chữa tư tưởng, kiến giải, ngôn hành sai lầm, đó là tu hành thật sự, bạn làm gương tốt cho xã hội đại chúng. Người thế gian tâm không thanh tịnh, người thế gian hàng ngày tạo nghiệp chướng, tôi ở thế gian này tu tâm thanh tịnh, không bị ảnh hưởng, tôi tạo nghiệp thiện, không tạo nghiệp ác, lâu dần sẽ có ảnh hưởng. Đến lúc đó, tự mình muốn sinh về Tây Phương Cực Lạc, khi nào muốn đi là có thể đi, vì sao? Tâm bạn thanh tịnh. Thật sự không còn luyến tiếc, không còn kỳ vọng, thật sự đạt đến không tranh với người, không cầu ở đời, làm gương tốt cho người đời thấy, đó gọi là thật sự học Phật. Trong trường học, không chỉ làm gương tốt cho bạn bè, mà còn cho thầy cô, cho xã hội, đó là vô lượng công đức!
Tịnh độ là đại thừa, không phải tiểu thừa, lý do này nhất định phải hiểu. Dùng phương pháp tiểu thừa, chỉ cầu tự lợi mà không thể lợi tha, tâm hành này không thể vãng sinh, niệm Phật cũng không thể vãng sinh. Thực sự có thể niệm Phật vãng sinh, nhất định phải phát nguyện, sau khi sinh về Tây Phương Cực Lạc, gặp A Di Đà Phật, được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, nhất định phải trở lại Ta Bà phổ độ chúng sinh, điều kiện này mới được. Vì vậy, Tây Phương Cực Lạc không phải nơi tránh nạn, không phải để hưởng phúc, là nơi để thành tựu đạo nghiệp, điều này phải hiểu. Nếu ở thế gian này có cơ hội thành tựu đạo nghiệp, bạn không thể bỏ lỡ, vì sao? Phật nói rất rõ trong kinh, tu hành ở thế gian một ngày, tương đương với tu hành ở thế giới Tây Phương một trăm năm.
Vì vậy tu hành thực sự thành tựu, ở thế gian này nhanh chóng, ở thế giới Tây Phương tu hành rất chậm. Nơi đó điều kiện tu hành tốt, không có gì cản trở, tiến bộ rất chậm. Thế gian này gọi là đại khởi đại lạc, nếu bạn khởi lên, sẽ tiến rất cao, nếu bạn bị loại bỏ, cũng sẽ bị loại bỏ rất nhanh, nơi này gọi là đại khởi đại lạc. Bạn làm sao giữ được đại khởi mà không lạc? Vì vậy bạn hiểu Tây Phương tịnh độ có bốn độ, ba bậc, chín phẩm, tại sao chúng ta không lấy mục tiêu cao nhất? Tại sao không chí nguyện cầu sinh thực báo trang nghiêm độ, thượng thượng phẩm vãng sinh? Trong thế gian này, một đời có thể thành tựu, đến Tây Phương cần rất nhiều kiếp, không phải thời gian ngắn, điều này phải hiểu. Phật nói rõ cho bạn, nếu không nói rõ, đến Tây Phương bạn sẽ trách A Di Đà Phật, “Thế gian có cơ hội tốt như vậy, tại sao lại gọi tôi đến đây, khiến tôi phải mất thời gian dài như vậy?” Phật đã nói rõ, bạn tự chọn. Tuy nhiên, Tây Phương là chắc chắn, chỉ có tiến lên, không có lùi, nhưng tiến bộ rất chậm, tình trạng thực tế này phải hiểu.
Như trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói rất rõ, nhất là trong “Phẩm Tịnh Hạnh”, vừa nói qua. “Phẩm Tịnh Hạnh” tại sao cảnh giới thuận nghịch đối với Bồ Tát, tức là người tu hành, đều bình đẳng? Đó là tâm có thể chuyển cảnh, đó là trong “Kinh Lăng Nghiêm” nói, “Nếu có thể chuyển cảnh, thì cùng như lai”, điều này rất quan trọng. Vì vậy, người biết tu hành, giống như Thiện Tài trong năm mươi ba tham cuối cùng của “Kinh Hoa Nghiêm”, đây là tấm gương Thiện Tài biểu hiện cho chúng ta thấy, chúng ta phải biết học hỏi. Trong cảnh giới thuận, thiện duyên tu gì? Không sinh tâm tham luyến, đó là biết tu hành; trong cảnh giới nghịch, ác duyên tu không sinh tâm sân hận. Tâm tham, sân, si của bạn từ đâu đoạn? Phải đoạn trong cảnh giới, đó là đoạn thật sự. Cảnh giới không hiện tiền, bạn tìm núi sâu, tìm động ở, tu hành, không tiếp xúc với bên ngoài. Tu ba mươi năm, tâm rất thanh tịnh, cảm thấy rất tốt, sau đó xuống đi dạo một vòng, lập tức loạn. Vì sao? Không qua thử thách. Bạn đến núi sâu, đó là trốn tránh, trốn tránh không được, phải đối mặt với thực tế một cách dũng cảm, trong cảnh giới thực tế đoạn tham, sân, si, mạn, đó là đoạn phiền não.
Đáp: Không nên lập đạo tràng là nói với người xuất gia, không phải nói với người tại gia. Hy vọng người tại gia lập đạo tràng, người xuất gia không lập đạo tràng, cũng giống như là hy vọng người tại gia lập trường, người xuất gia giảng dạy, người xuất gia hoằng pháp, người tại gia hộ pháp, phân chia như vậy là được.
Đáp: Thực ra, nữ giới và nam giới là như nhau, nếu có sự phân biệt thì đó không phải là Phật pháp, ít nhất không phải là đại thừa pháp; tiểu thừa pháp có những chấp trước này, nhưng đại thừa pháp thì không, đại thừa pháp là pháp bình đẳng. Tại sao trong kinh Phật nói nữ giới xuất gia sẽ làm giảm pháp vận của Phật đi 500 năm? Ý nghĩa là nữ giới có nhiều phiền não hơn, tâm lượng nhỏ, lòng ghen tuông nặng, lý do là ở đó. Phật nói điều này có đúng không? Chúng ta suy nghĩ sẽ hiểu rõ. Nguyên nhân chủ yếu là do yếu tố sinh lý và đời sống gia đình. Phụ nữ phần lớn chủ nội, phạm vi cuộc sống nhỏ; đàn ông chủ ngoại, phạm vi cuộc sống lớn. Phạm vi cuộc sống nhỏ thì tâm lượng tự nhiên nhỏ, khởi tâm động niệm chỉ nghĩ đến lợi ích của cái vòng nhỏ này. Vì vậy, sau khi học Phật, nhất định phải mở rộng tâm lượng, nếu có thể buông bỏ mọi thứ, đạt được “tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”, phụ nữ cũng có thể thành Phật.
Trong Kinh Pháp Hoa, Phật dùng hình ảnh của Long Nữ để biểu thị pháp, Long Nữ tám tuổi thành Phật. Phật nói điều này vào thời kỳ chánh pháp, nhưng vào thời kỳ mạt pháp thì hoàn toàn đảo lộn. Năm xưa, cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã cảm thán rằng, vào thời kỳ chánh pháp và thời kỳ tượng pháp, người tu hành chứng quả và thành tựu, tỷ lệ xếp hạng là: thứ nhất là nam giới xuất gia, thứ hai là nữ giới xuất gia, thứ ba là nam giới tại gia, thứ tư là nữ giới tại gia.
Hiện nay, vào thời kỳ mạt pháp, người học Phật thực sự có thành tựu, niệm Phật có thể vãng sanh, số lượng nữ giới tại gia chiếm đa số, kế đến là nam giới tại gia, tiếp theo là nữ giới xuất gia, cuối cùng là nam giới xuất gia.
Tại sao nam giới xuất gia không thể thành tựu? Vì họ cầu danh lợi, tâm không đặt vào đạo, không bằng những cư sĩ tại gia. Những cư sĩ tại gia sau khi nghe Phật pháp thì chân thật tu hành, trong khi những người xuất gia thường lợi dụng Phật pháp để cầu danh lợi cho bản thân, đây là sai lầm lớn! Vì vậy, các đồng tu nữ giới không nên lo lắng về những lời này, mà nên chăm chỉ tu hành.
Đáp: Suy nghĩ của bạn rất tốt, cứ coi như Hộ Pháp Thần thúc giục bạn làm công phu sớm là được rồi. Bạn cũng đừng bận tâm quá về việc này, mà hãy tập trung tâm trí vào việc niệm Phật. Đối với cư sĩ tại gia, làm công phu sáng tối nên chú trọng vào niệm Phật thì tốt hơn. Cổ đức có câu: “Niệm kinh không bằng niệm chú, niệm chú không bằng niệm Phật.” Trừ khi bạn đang ở trong đạo tràng làm người dẫn chúng, đạo tràng có quy tắc thì phải tuân theo quy tắc; hoặc là bạn phát tâm giảng kinh hoằng pháp, thì hãy tập trung vào kinh giáo. Nếu không có những việc này, nên chuyên tâm niệm Phật, quyết định cầu sinh Tịnh Độ, đó là việc quan trọng nhất trong đời này.
Đáp: Không có tư tâm, niệm niệm vì Phật pháp, niệm niệm vì chúng sinh, thực sự làm công việc cứu khổ cứu nạn. Ngày đêm luôn nghĩ cho người khác, không bao giờ nghĩ cho bản thân hay gia đình, một lòng hướng đạo, đây là tấm gương tốt nhất của chúng ta.
Không chỉ cư sĩ tại gia nên làm tấm gương học Phật tại gia, người xuất gia cần làm gương tốt cho người xuất gia, đạo tràng cần làm gương cho các đạo tràng khác. Đối với bất kỳ lời phê bình chỉ dạy nào, bất kể là thiện ý hay ác ý, chúng ta đều phải chân thành cảm kích, coi đó là những thiện tri thức thật sự, nghiêm túc kiểm điểm và cải tiến, thì mới có thể tiến bộ mỗi ngày. Một người tu hành sẽ tiến bộ, đạo tràng sẽ hưng thịnh, quyết định là ở sự cải thiện bản thân. “Cải tiến”, cải là cải thiện, tiến là tiến bộ; không cải thiện, làm sao có thể tiến bộ?
Có trí tuệ mà không có phúc báo thì làm việc gặp nhiều chướng ngại, không dễ thành công. Có phúc báo mà không có trí tuệ thì thường làm sai việc. Phúc và trí tuệ, trong kinh điển ví như hai bánh xe của xe, hai cánh của chim, thiếu một không được. Vì vậy, Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta “trú chân thực trí tuệ”, đây là trí tuệ; “ban cho lợi ích chân thực”, đây là phúc báo. Phật khuyên chúng ta nên tu cả phúc lẫn trí tuệ, đối với bản thân, đối với xã hội, đối với tất cả chúng sinh, mới có thể đem lại lợi ích chân thực.
Đáp: Có sự phân biệt giữa đệ tử tại gia và xuất gia. Đối với đệ tử tại gia, Phật cũng cho phép họ kết hôn sinh con. Tuy nhiên, đối với đệ tử xuất gia, điều này thực sự có thể ảnh hưởng đến việc tu học. Xuất gia cần chuyên tâm vào công việc hoằng pháp lợi sinh, việc này đòi hỏi phải nghiên cứu sâu về kinh điển; việc nghiên cứu kinh điển là một công việc khó khăn, tốt nhất là không nên phân tâm.
Tuy nhiên, đệ tử tại gia cũng có thể hoằng pháp lợi sinh, nhiều cư sĩ đại thành tựu thực sự cũng thường xuyên giảng kinh thuyết pháp.
Đáp: Thầy và bạn đồng tu là duyên phận, rất khó tìm nếu không có duyên. Tuy nhiên, bạn phải có lòng mong cầu thầy và bạn đồng tu thì mới có cơ hội gặp được; nếu không có ý niệm này, bạn sẽ không gặp được. Có ý niệm thì có cảm, có cảm thì sẽ có ứng; nếu có cảm mà chưa có ứng, đó là do nghiệp chướng của chúng ta. Khi nghiệp chướng được tiêu trừ, cảm ứng sẽ hiện tiền. Nếu thực sự không gặp được, tu học ở nhà vẫn rất tốt.