Phật pháp vấn đáp : Nhân Duyên Quả Báo Cuộc Đời không ai tránh khỏi.

Luật nhân quả lày Gì

Nhân quả là quy luật phổ biến của vũ trụ, chi phối mọi sự sinh diệt và biến đổi, là hiện thực của nhân gian. Từ tự nhiên giới đến chúng sinh giới, từ thiên thể đến vi trần, không có hiện tượng nào thoát khỏi mối quan hệ nhân duyên quả báo.

Lý thuyết về vòng luân hồi của nhân quả rất rõ ràng, nhưng khi gặp nhân duyên, ít người có thể bình thản đối mặt. Ngay cả những người có niềm tin tôn giáo rất sâu sắc cũng không tránh khỏi nghi ngờ khi gặp nghịch cảnh: Nhân quả do ai điều khiển? Ai là người chủ đạo? “Thiện có thiện báo, ác có ác báo” có thực sự đúng như vậy không? Mối quan hệ giữa người xuất gia và nhân duyên quả báo là gì? Thực tế, nhân quả có nguyên lý của nó, nhân quả là luật bảo vệ tâm linh của mọi người, là con đường không thể thiếu để duy trì công bằng và chính nghĩa. Nhân duyên quả báo ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người, đặc biệt là với những người trong giới tu hành, họ càng phải có nhận thức chính xác về vấn đề này.

Với những kiến thức Phật Pháp nông cạn của Phụ Kiện Song Phát, xin được phép chia sẻ lại nguyên lý của nhân duyên quả báo cũng như những thắc mắc thường gặp của mọi người, mong rằng mỗi người đều có thể hiểu rõ nhân và quả, để tiếp tục gieo nhân thiện, và chắc chắn sẽ gặt hái quả thiện.

Nhân quả tuần hoàn có số định sẵn? Nhân quả là quy luật cơ bản của vũ trụ

“Nhân quả” là lý thuyết cơ bản nhất trong Phật giáo, nó cũng là một quy luật tự nhiên, một nguyên lý tự nhiên. Mọi sự vật, hiện tượng đều không thoát khỏi sự vận hành của nhân quả. Vì vậy, mọi điều tốt hay xấu mà chúng ta trải qua trong cuộc sống, nếu truy xét đến tận gốc, thường sẽ tìm thấy được dấu vết của nguyên nhân.

Nhân Quả là gì?

Kim Bồ Tát Tông Sư từng nhắc đến rằng, cái gọi là “nhân quả” chính là “có nguyên nhân, có kết quả.” Con người thường hành động dựa trên một nhu cầu nào đó, cuối cùng sẽ tạo ra kết quả. Nói bằng một câu thành ngữ thì đó là “gieo gió gặt bão” hay “gieo hạt đậu thì được đậu.” Và cái mà chúng ta thường nghe gọi là “quả báo” chính là cảm nhận cuối cùng sau khi nhân quả diễn ra.

Quả báo xấu và quả báo lành

Quả báo có tốt có xấu. Thế nào là quả báo xấu? Giả sử có một người lái xe gây tai nạn rồi bỏ trốn, dù anh ta có thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật, nhưng có thể vì cảm giác tội lỗi mà sinh ra ám ảnh tâm lý, dẫn đến việc anh ta trở nên nghi thần nghi quỷ, thậm chí thường xuyên bị ác mộng quấy rối, cả thân tâm đều chịu sự hành hạ. Không chỉ vậy, sau khi chết, anh ta sẽ phải xuống địa ngục, chắc chắn sẽ rơi vào cõi ác, chịu sự trừng phạt vô tận vì tội lỗi đã gây ra, đây chính là “ác báo.” Còn quả báo lành, ví dụ như một giáo viên tận tụy với nghề, kiên nhẫn và cẩn thận hướng dẫn từng học sinh. Mười năm sau, những học sinh đó có thể trở thành những trụ cột của xã hội, hoặc quay lại bày tỏ lòng biết ơn đối với thầy cô, điều này sẽ khiến người thầy ấy cảm nhận được hạnh phúc và cảm giác thành tựu vô song, cảm giác này chính là “thiện báo.”

Từ hai ví dụ đối lập trên, có thể thấy rằng “tâm niệm ban đầu” quyết định kết quả tương lai sẽ ra sao. Vì vậy, có câu nói rằng “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả,” câu này nhằm nhắc nhở mọi người rằng, trước khi bắt đầu bất cứ việc gì, cần phải cẩn thận xem xét tâm niệm của mình, chỉ cần gieo nhân lành từ đầu thì tự nhiên sẽ tránh được quả báo xấu.

Hối cải niệm Phật để xóa bỏ ác nghiệp

Trong “Kinh Quan Vô Lượng Thọ” có nói: “Nhờ niệm danh Phật, mà trong từng niệm, xóa bỏ tội nghiệp sinh tử suốt tám mươi ức kiếp.” Chỉ cần chân thành niệm Phật, không chỉ có thể xóa bỏ những suy nghĩ xấu, thanh tịnh thân tâm, mà còn có thể hiểu được trí tuệ lớn lao của Phật. Trong khi niệm Phật, hãy tự phản tỉnh những tội lỗi đã phạm trong quá khứ, đồng thời hối cải với những chúng sinh đã từng bị tổn hại bởi mình, chúng ta có thể như được tái sinh, xóa bỏ ác nghiệp, biến chuyện lớn thành chuyện nhỏ, và chuyện nhỏ thành không có.

Hành thiện từ bi để tạo ra nhân lành

Người có tâm từ bi là người may mắn, vì từ bi là phúc lớn nhất trong cuộc đời và là tài sản quý giá nhất. Đối xử với người khác và sự vật bằng lòng từ bi, tâm hồn của chúng ta sẽ trở nên rộng mở hơn, biết tôn trọng, bao dung, và đặt mình vào vị trí của người khác. Điều này giúp chúng ta tạo ra nhiều duyên lành, từ đó xây dựng cuộc sống hạnh phúc và vui vẻ.

Thực hành cúng dường và bố thí để có được sự phú quý và may mắn

Giả sử một người giàu có hơn quốc gia, nhưng tâm lý lại keo kiệt, thì người đó vẫn là người nghèo. Ngược lại, dù túi tiền không dày nhưng sẵn lòng chia sẻ tài sản cho những người cần giúp đỡ, thì người đó là người giàu có. Một người thực sự giàu có về tinh thần, các vị thần và Phật sẽ đến giúp đỡ họ. Ngoài việc bố thí, cúng dường cho những người tu hành và các vị Phật cũng là một công đức lớn. Chỉ cần chúng ta thành tâm cúng dường, giúp nhiều chúng sinh có cơ hội được giáo hóa và cứu độ, hoặc sau này những người tu hành chứng đạo thành Phật, chúng ta sẽ nhận được phúc báo này.

Câu chuyện nhân quả: Tấm lòng ấm áp giải quyết vận rủi

Nhân quả luân hồi và sự báo ứng thường xảy ra trong cuộc sống của chúng ta, 1 câu nói rất ý nghĩa : “Muốn thu hoạch thế nào, trước tiên phải gieo trồng như vậy.” Cuộc đời không có sự may mắn ngẫu nhiên, tất cả sự may mắn đều đến từ sự tích lũy trong thời gian dài.

Gieo nhân nào gặt quả nấy
Gieo nhân nào gặt quả nấy

Có một người phụ nữ làm việc trong một nhà máy chế biến thực phẩm. Một buổi chiều, khi cô làm việc trong kho lạnh, cánh cửa kho lạnh vô tình bị một nhân viên bất cẩn đóng lại. Cô đã kêu gọi một thời gian dài mà không có ai nghe thấy. Cô nghĩ rằng mình đã xong, nếu đến sáng hôm sau mà không ai mở cửa, cô có thể sẽ chết cóng trong kho lạnh. Khi cô đã lạnh đến mức không còn cảm giác, cửa bỗng nhiên kêu “cọt kẹt” và mở ra. Cô dùng hết sức lực còn lại để mở mắt ra, thì thấy là nhân viên bảo vệ của nhà máy đã vào. Như vậy, nhân viên bảo vệ đã cứu cô ra ngoài.

Sau đó, cô hỏi nhân viên bảo vệ: “Sao bạn biết tôi ở trong đó?”

Nhân viên bảo vệ trả lời: “Tôi đã làm việc ở công ty này ba mươi năm rồi, thật sự mà nói, vì tôi chỉ là một người canh cửa, nên không có nhiều người chủ động chào hỏi tôi. Bạn là người duy nhất luôn chào tôi. Mỗi sáng, bạn luôn vẫy tay và chúc tôi buổi sáng tốt lành, khi rời khỏi công ty, bạn cũng luôn nhiệt tình chúc tôi buổi tối tốt và hẹn gặp lại ngày mai.

Nhưng hôm đó, bạn đã chào tôi vào buổi sáng, nhưng khi tan làm, giữa hàng trăm người, tôi không thấy bạn vẫy tay chào tạm biệt. Tôi lo lắng có chuyện gì xảy ra, nên đã tìm kiếm khắp công ty. Trước đây đã có người bị khóa nhầm trong kho lạnh và chết cóng, vì vậy tôi đã mở cửa kho lạnh và phát hiện bạn thật sự ở bên trong.”

Trong cuộc sống, không thể tránh khỏi những tai nạn bất ngờ. Chỉ có việc thường xuyên tích đức hành thiện, tích lũy phúc báo, tạo ra duyên lành, khi đối mặt với thiên tai bất ngờ, mới có đủ phúc khí và công đức để trở thành “người may mắn” trong hàng triệu người, giải quyết nguy cơ một cách thuận lợi.

Những câu hỏi về Nhân Duyên Quả Báo Cuộc Đời


Đáp: Trên đời này, không kể là người như thế nào, có thể không sợ bất kỳ điều gì, nhưng không thể không sợ “nhân quả”. Một người làm thiện hay làm ác, cuối cùng đều không thể thoát khỏi sự chế tài của nhân quả; thường ngày không coi trọng nhân quả, đến khi quả báo hiện tiền, không ai có thể cứu được bạn.

Lý thuyết về nhân duyên và nhân quả, nói một cách đơn giản thì rất dễ hiểu, những người có duyên với nhau thì “có duyên ngàn dặm vẫn gặp nhau”, nhưng việc có duyên giữa con người với nhau không phải là điều dễ dàng.

Duyên phận từ đâu mà đến? Lý thuyết này rất sâu xa. Lúc đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi dưới cây bồ đề và đạt đến giác ngộ hoàn toàn, Ngài đã ngộ ra chân lý của vũ trụ và nhân sinh. Chân lý của vũ trụ và nhân sinh này chính là “duyên khởi”, “nhân duyên”. Thế giới này đều là “các pháp do nhân duyên sinh, các pháp do nhân duyên diệt”, duyên sinh duyên diệt, là mối quan hệ vi diệu nhất của vũ trụ và nhân sinh.

Nhưng khi nói đến “duyên”, có cái gọi là “nhân”, “duyên”, “quả”, trong quá trình “nhân” trở thành “quả”, cần phải có “duyên”. Ví dụ như một hạt giống đặt lên bàn, nó không thể nảy mầm, vì bàn không phải là “duyên” của nó; hạt giống phải được gieo vào đất, cần có ánh sáng mặt trời, nước và không khí, cần phải có nhiều yếu tố hợp duyên thì nó mới có thể phát triển và ra quả. Do đó, “trong nhân có quả”, “trong quả có nhân”, nhưng giữa nhân và quả, “duyên” là một mối quan hệ rất quan trọng. Vì vậy, duyên là một mối quan hệ mà chúng ta không thể không coi trọng.

Vì vậy, một người xuất gia, thọ đủ giới luật, trở thành mô phạm cho trời người, lời nói và hành động của họ cũng có nhân duyên quả báo, không thể chỉ có danh nghĩa xuất gia mà không thực hành đúng với danh nghĩa đó. Phải luôn tự hỏi mình: Có bao nhiêu pháp Phật để hóa độ chúng sinh? Có bao nhiêu lòng từ bi để cứu giúp chúng sinh? Có bao nhiêu sự nhẫn nhục để chịu khổ vì chúng sinh? Có bao nhiêu năng lực để cống hiến cho chúng sinh? Tóm lại, người xuất gia không thể hưởng thụ cúng dường của mười phương một cách hư danh, phải làm một người xuất gia đúng nghĩa thì mới không phụ lòng nhân duyên quả báo của sự xuất gia.


Đáp: Một người có thể xuất gia hay không, đương nhiên là có sự khác biệt về nhân duyên quả báo. Có người có những hành vi tốt, nghiệp báo tốt, sẽ thúc đẩy họ xuất gia, như là trước đây đã cung kính tam bảo, cúng dường tam bảo, tu năm giới, mười thiện, chính kiến chính pháp, v.v.; có người bản thân có điều kiện tốt, nhưng thiếu một chút duyên phận thì không thể như ý xuất gia. Vì vậy, mọi việc trên đời, dù thành hay không thành, đều phải xem nhân duyên có đủ hay không.


Đáp: Một người khi đã có ý muốn xuất gia, trước hết họ phải có niềm tin, phải có thệ nguyện độ chúng sinh, phải có một vị sư trưởng hợp duyên với họ, sẵn lòng nhận họ làm đệ tử; vị đệ tử này cũng phải sẵn lòng bái họ làm thầy, cùng họ học đạo, những điều này không phải là chuyện một sớm một chiều, mà là chuyện lâu dài. Tóm lại, giữa thầy và trò phải có một mối duyên nhất định, thì mới có thể cùng nhau tu đạo.

Xuất gia tu đạo không phải là chuyện một ngày, hai ngày có thể thành công, cũng cần có một khoảng thời gian nhất định, trải qua nhiều gian khổ, nhiều sự hợp tác và rèn luyện trong đại chúng, nếu nhân duyên đầy đủ thì sẽ như ý nguyện.


Đáp: Trong Phật giáo có không ít những ví dụ như vậy. Ví dụ, một người khi thấy tượng Phật không thể sinh lòng tin, không vui vẻ, chúng ta có thể dần dần nuôi dưỡng họ trong môi trường tự nhiên, để họ cảm nhận được lòng từ bi, ánh sáng của Phật; hoặc khi họ gặp khó khăn, gặp được một vị thầy tốt hoặc thiện tri thức khai sáng, để họ sinh lòng cảm mến với Phật giáo, từ đó họ kết duyên với Phật giáo. Cũng có một số người ban đầu nhân duyên với Phật giáo rất mỏng manh, thậm chí phản đối Phật giáo, nhưng khi nhân duyên chín muồi, họ sẽ rất nhiệt tình bảo vệ Phật pháp.

Trong thời Đức Phật, có một người phụ nữ tên là Liên Hoa Sắc vì hôn nhân trắc trở, sau đó rơi vào cõi đời ô uế, và bị ngoại đạo mua chuộc, họ muốn lợi dụng sắc đẹp của cô để phá hoại giới luật thanh tịnh của chư Tăng.

Một ngày nọ, Liên Hoa Sắc trang điểm lộng lẫy, khi chuẩn bị quyến rũ Mục Kiền Liên, Mục Kiền Liên dùng thần thông thấy được ý đồ của cô, liền nói: “Liên Hoa Sắc, nghiệp tội của cô đã rất nặng nề rồi, cô còn muốn tạo thêm tội nữa sao?”

Liên Hoa Sắc giật mình, không ngờ Mục Kiền Liên đã biết được ý đồ xấu của mình, cô liền thẳng thắn nói: “Thưa tôn giả, thực sự con đã từng là một người có tội, nhưng con phải làm sao để được độ?” Mục Kiền Liên bảo: “Liên Hoa Sắc, tội nghiệp trong quá khứ không phải là vấn đề, chỉ cần cô biết sám hối, thì dù tội nặng đến đâu cũng có thể cứu được. Nhưng bây giờ và tương lai mới là quan trọng, cô phải sám hối, phải sửa đổi.”

Liên Hoa Sắc lại hỏi: “Thưa tôn giả, như con đây, từng là con dâu của người, có chồng, nhưng chồng con lại ngoại tình với mẹ con, làm sao con có thể chịu nổi? Con bỏ nhà ra đi; nhưng con đã sinh một bé gái, sau hơn mười năm, chồng hiện tại của con lại ngoại tình, và người đó lại chính là cô con gái này của con, tội nghiệp và ác duyên như vậy, cuộc đời này thật đáng sợ.”

Mục Kiền Liên bảo cô: “Chính vì duyên nghiệp như vậy, nên Liên Hoa Sắc, cô không thể tiếp tục tạo thêm tội nghiệp nữa, quay đầu lại chính là bờ.”

Như Liên Hoa Sắc, dù nghiệp tội rất nặng, đối với những việc tốt, những đạo lý tốt đều không thể sinh lòng tin, nhưng vì một lời nói của Mục Kiền Liên: “Tội ác trong quá khứ không quan trọng, quan trọng là phải nắm bắt hiện tại!” đã cho cô một nhân duyên để được độ. Cũng vì nhân duyên này, Liên Hoa Sắc sau đó đã xuất gia dưới sự dẫn dắt của Đức Phật, cố gắng tu thiện bỏ ác, trở thành một tỳ kheo ni đệ nhất về thần thông trong hàng đệ tử của Đức Phật.

Do đó, trong Phật giáo, tứ nhiếp pháp, lục độ, ngũ giới, thập thiện, chẳng qua là để cho mọi người có những nhân duyên tốt lành, cũng là con đường để hoàn thành việc kết duyên lành rộng rãi, tự lợi lợi tha, thật đáng làm biết bao!


Trả lời:

Trong quá khứ, ở các tùng lâm, một người sau khi xuất gia phải trải qua “năm năm học giới” rồi mới có thể “nghe giảng và tham thiền”. Nghĩa là học giới cần có thời gian năm năm, phải học nhẫn nại, học quy củ, học tu hành, học lòng từ bi, học tính cách mềm mỏng, và phải khiêm tốn nhẫn nhịn trong mọi việc. Năm năm học giới vẫn chưa đủ, khi đã quen với đời sống khổ hạnh, giới luật, và từ bỏ được tâm kiêu mạn, thì mới học giáo lý và tham thiền, khi đó sẽ dễ thành công hơn.

Tuy nhiên, thanh niên thời nay, vừa mới bước vào con đường tu hành đã kiêu ngạo; mới học được vài câu Phật pháp đã thích khoe khoang khắp nơi, tự cho mình là có đạo hạnh, rất giỏi nói, điều này là không đúng. Ít nhất là phải có nền tảng giới luật sâu dày, tâm tính từ hòa. Một người phát tâm xuất gia, phát tâm thọ nhận giới pháp, là để trở thành một người xuất gia tốt. Sau đây tôi xin chia sẻ 12 điểm khích lệ:

  1. Bỏ kiêu mạn, chịu oan ức: Người xuất gia trước tiên phải có thể bỏ kiêu mạn, chịu oan ức. Bỏ được kiêu mạn, mới có thể khiêm tốn tiếp nhận sự chỉ dạy của người khác; chịu đựng được oan ức, mới có thể vượt qua nhiều khó khăn; chịu được sự hành hạ, mới có thể thành tựu.

  2. Chăm chỉ lao động, biết quý trọng phúc báo: Phải dâng hiến bản thân cho Phật giáo, do đó cần chăm chỉ làm việc, phục vụ đại chúng. Quý trọng phúc báo là nghiêm cẩn tự răn mình, không lãng phí tài vật, không làm phiền người khác, nhưng đối với người khác phải có tâm cúng dường. Chỉ có người biết quý trọng phúc báo, nghiêm khắc với bản thân mới có thể khoan dung với người khác.

  3. Có nhiệt tình, yêu Phật giáo: Người xuất gia bình thường nên thể hiện lòng từ bi, hòa nhã, và phải có tâm nhiệt thành, trí tuệ, từ bi, lấy sự hưng thịnh của Phật giáo làm sự tồn vong của bản thân, lấy khổ vui của chúng sinh làm việc khẩn cấp trước mắt.

  4. Phát tín nguyện, thật tu hành: Tín nguyện là sức mạnh hướng tới con đường Phật đạo. Khi đã có lòng tin vững chắc không lay chuyển vào Phật pháp, thì cần dũng cảm tiến lên, dù có hàng vạn người ngăn cản cũng không rút lui. Dù đứng, nằm, ngồi, hay đi, ăn mặc, chỉ khi dùng tâm trải nghiệm Phật pháp, bước đi vững chắc trong việc tu tập, thì đó mới là người có tín nguyện, thật tu hành.

  5. Sửa thói quen, dưỡng nghiêm nghị: Người xuất gia phải sửa đổi thói quen, trong đời sống hàng ngày dần dần hình thành phong thái nghiêm nghị; nếu thói quen không được sửa đổi, phong thái sẽ không thể trang nghiêm. Đức Phật trong quá khứ là nhờ “ba ngàn uy nghi, tám vạn tế hạnh” đầy đủ mà có thể thu phục vô số người.

  6. Trừ bỏ đố kỵ, mở rộng tâm lượng: Những người cùng tu học trong Phật giáo là thân thuộc, chứ không phải oan gia, giữa nhau nên chia sẻ khó khăn. Cổ đức nói: “Muốn Phật pháp hưng thịnh, không gì ngoài tăng tán tăng.” Phật tử nên buông bỏ thành kiến, trừ bỏ đố kỵ, bằng lòng tán thán thành tựu của người khác, chỉ có hỗ trợ lẫn nhau mới có thể cùng tồn tại.

  7. Tránh lời chê bai, xa lánh thế tục: Người xuất gia vì thân phận đặc biệt, dễ thu hút sự chú ý, do đó cần đặc biệt chú ý lời nói và hành động của mình để tránh những lời chê bai không cần thiết. Ngoài ra, người xuất gia thà sống cô độc, cũng không nên kết thân với người thế tục, làm đảo lộn đầu đuôi, thân tâm mới có thể an trú trong Phật pháp.

  8. Chăm chỉ học hỏi, để độ chúng sinh: Xuất gia là để độ hóa chúng sinh. Để ứng phó với các căn cơ khác nhau của chúng sinh, độ chúng sinh cũng cần có nhiều phương tiện, do đó cần “chăm chỉ học hỏi, để độ chúng sinh”.

  9. Nên tiết kiệm, biết đủ: Người thường chỉ biết tiết kiệm tiền bạc, vật chất, người xuất gia ngoài việc tiết kiệm tiền bạc, vật chất, còn phải biết tiết kiệm cảm tình, thời gian, và biết đủ. Cổ nhân nói: “Biết đủ là giàu nhất”, người biết đủ thì có thể sở hữu ba nghìn đại thiên thế giới.

  10. Có tự chế, không phóng túng: Điểm yếu lớn nhất của người xuất gia là thiếu tự chế. Đối mặt với tiền bạc, sắc đẹp, thậm chí thói quen của bản thân nếu thiếu tự chế thì dễ bị lung lay; người có thể kiểm soát bản thân thì tâm không phóng túng.

  11. Không tranh luận, không oán hận: Người bình thường sở dĩ có tranh chấp, là vì chấp ngã chưa được trừ bỏ. Người xuất gia, nếu chấp ngã mạnh, thì rất dễ tranh luận với người khác trong mọi việc, do đó nên học hành vi của Phật Bồ Tát, dù bị xúc phạm cũng phải kiên nhẫn không nổi giận.

  12. Nhạt tình thân, cầu nội chứng: Người xuất gia cắt ái từ thân, là để cầu đạo Phật, điều kiện cơ bản nhất là phải nhạt tình thân. Hành vi hiếu đễ thực sự của người xuất gia không nhất thiết phải thường xuyên về nhà, mà là làm tốt bổn phận của người xuất gia, trong tâm có sự chứng ngộ, đó mới là đại hiếu thực sự.

Người xuất gia cần trải nghiệm niềm vui pháp từ Phật pháp, đối mặt với mọi nghịch cảnh mới có thể cam chịu ngọt ngào; phải cùng chia sẻ khó khăn với Phật giáo, hoàn thành trách nhiệm của Phật tử “thượng hoằng hạ hóa”, mới không phụ lòng làm một người xuất gia.


Trả lời:

Người mới xuất gia, người xuất gia trẻ, mỗi ngày lạy Phật ba, năm trăm lạy cũng không nhiều. Lạy Phật, không quan trọng là lạy vị Phật nào, vị Bồ Tát nào, mà phải lạy thật cẩn thận, không phải lạy qua loa.

Người mới xuất gia, tốt nhất là lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, “Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”, khoảng mười lăm phút lạy mười hai lạy, nửa giờ lạy hai mươi bốn lạy, một giờ lạy bốn mươi tám lạy, lạy một ngày nên lạy vài trăm lạy, biến lạy Phật thành định khóa của mình. Hoặc lạy buổi sáng, lạy buổi tối, khi lạy thân đang lạy, miệng đang niệm, tâm đang nghĩ, ba nghiệp thân, khẩu, ý hợp nhất, thì thân tâm sẽ dần dần tương ứng với đạo.

Ngoài việc lạy Phật, còn phải niệm Phật. Tự mình có duyên với vị Phật, vị Bồ Tát nào thì xưng niệm danh hiệu Phật tương ứng, không phân biệt là “A Di Đà Phật”, “Quán Thế Âm Bồ Tát”, “Thích Ca Mâu Ni Phật”, “Dược Sư Phật”, “Địa Tạng Vương Bồ Tát” đều có thể.

Còn có tụng kinh, người mới học tốt nhất là trì tụng Kinh “Bát Đại Nhân Giác”, “Phật Di Giáo Kinh”, “Tứ Thập Nhị Chương Kinh”, học từ giới luật, bắt đầu từ khổ hạnh, tôn trọng người, khiêm tốn, cần trải qua một thời gian nhất định mới có thể dần dần chinh phục được tâm tính cứng cỏi của mình.


Trả lời:

Người xuất gia có thể tự hoàn thiện mình, đó là người tu hành chân chính, là thánh hiền trong nhân gian, là “quy y tăng, chúng trung tôn”, là người tôn quý nhất trong đại chúng, với công hạnh của họ, đương nhiên có thể làm rạng rỡ tổ tiên. Cổ nhân nói: “Một người đắc đạo, cửu tộc thăng thiên”, một người tu hành thành tựu, gia đình cũng được hưởng lây.

Hiện nay có người muốn xuất gia, ban đầu có thể gia đình phản đối, vì họ sợ bạn không chịu được khổ hạnh, nhưng khi bạn đã xuất gia, thực sự như một người xuất gia, thì cha mẹ, thân nhân đều sẽ tôn trọng bạn.


khi chọn trụ trì, học vấn tốt, khẩu tài tốt, tướng mạo trang nghiêm đều không phải là điều quan trọng nhất, điều kiện quan trọng nhất là phải có thể trưởng thành, trọng đức, có tâm cung dưỡng đại chúng, có thể quên mình vì công chúng, phải có tâm công bằng, tâm bình đẳng, tâm từ bi, có quan niệm về nhân quả, những điều kiện này đầy đủ mới có thể được đại chúng ủng hộ, mới có đủ năng lượng để trụ trì một phương.


Trả lời:

Người xuất gia và người tại gia tạo nghiệp, về quả báo có khác nhau. Người tại gia tạo nghiệp tội, quả báo nặng hơn; người xuất gia phạm giới, tạo tội, nghiệp tội nhẹ hơn. Vì sao? Vì người xuất gia khi phạm lỗi, vẫn còn có tâm sám hối, tâm hổ thẹn. Lấy việc uống rượu, ăn thịt làm ví dụ, người tại gia cho rằng ăn uống rượu thịt là chuyện bình thường, còn người xuất gia nếu vi phạm lỗi này, trong lòng sẽ sinh ra một tâm hổ thẹn, tâm sám hối, nên tội lỗi này cũng sẽ nhẹ đi, nhưng sau khi sám hối thì không được tái phạm.

Nhưng có người xuất gia lại cho rằng: “Điều này không sao đâu! Chỉ là uống chút rượu thôi mà! Hút điếu thuốc, ăn chút thịt, điều này không có gì quan trọng…”, như vậy thì càng nghiêm trọng hơn. Vì hành vi này không chỉ là phạm giới, mà còn là “phá kiến”, tức là sai lầm trong quan điểm căn bản, nên tội lỗi của họ sẽ nặng hơn.


Đồ vật của thường trụ, nên thuộc về thường trụ sở hữu, tức là “thập phương tăng vật”, là của mười phương, của công chúng, của tăng chúng, không phải là của riêng. Tam bảo Phật, Pháp, Tăng trong chùa chiền, tất cả tài sản của chùa, dù là một ngọn cỏ, một cành cây, đều thuộc về thường trụ sở hữu. Thậm chí, một người xuất gia rồi, tức là “sắc thân dâng cho thường trụ, tính mạng giao cho long thiên”, ba nghiệp thân khẩu ý đều cúng dường cho thường trụ, cho đại chúng, thân xác và tính mạng của họ cũng không còn là của riêng, nên không thể nói họ sở hữu bất cứ thứ gì.

Cuộc sống xuất gia nên từ “vô” nhập đạo, vô là vô hạn, vô lượng, vô cùng, vô tận. Trong kho báu vô tận của Phật pháp, chỉ có khi tự thân trống rỗng không sở hữu gì, việc tu hành, học tập về sau mới tiến bộ nhanh chóng.


Trả lời: Điều này là tất nhiên. Ví dụ, một bát cơm, một bữa ăn, nếu không biết trân trọng hoặc xâm phạm, phá hoại, sử dụng không đúng cách các vật dụng của thường trụ, sau này vẫn phải đền trả. Vì vậy, đối với các vật phẩm của thường trụ, của công, nhất định phải hiểu rõ nhân quả, biết được nhân duyên quả báo, sẽ không tùy tiện xâm phạm mà gây ra tội lỗi.


Trả lời: Cái gọi là “cúng dường cá nhân” ví dụ như bạn hôm nay giảng pháp, giảng kinh hoặc làm việc gì đó, tín đồ thấy có duyên với bạn, muốn cúng dường cho bạn, đây là cúng dường cá nhân, không phải cúng dường cho thường trụ. Việc nhận hay không nhận, phải xem xét phước đức và nhân duyên của bản thân.

Tuy nhiên, việc nhận cúng dường từ tín đồ cũng không phải là dễ dàng, tuyệt đối không nên nghĩ rằng “Tín đồ cúng dường cho mình, mình có nhiều phước báo”. Thực ra, phước báo này là của người xuất gia, của thường trụ, tín đồ muốn cúng dường vì bạn mặc áo tăng hoặc bạn có một thường trụ tốt, khiến họ phát tâm tin tưởng, vui mừng mà cúng dường. Do đó, một người xuất gia phải hành đúng pháp xuất gia, hành Bồ Tát đạo, nếu không hành Bồ Tát đạo, chỉ ngồi nhận cúng dường, giống như gửi tiền vào ngân hàng, chỉ chi mà không thu vào, sau này vẫn sẽ phải trả.


Trả lời: Nếu người này ở trong chùa, vì công việc mà nhận cúng dường, ví dụ như vị khách tiếp đón, hoặc người quản lý chùa nhận cúng dường do chức vụ, phải trả lại cho thường trụ. Nếu tín đồ nói rõ ràng “Phong bì nhỏ này, 10 đồng, 100 đồng là kết duyên với thầy”, bạn muốn nộp lại cho thường trụ là đức hạnh của bạn. Dù không nhiều, nhưng nếu thuộc về bạn, trong trường hợp đó, bạn có thể giữ; nếu mọi người thấy rõ, điều này là thuộc về bạn, thường trụ cũng không làm khó bạn.

Trong một đạo tràng tuân thủ quy tắc, các tín đồ cúng dường đều phải được thu nhận đúng quy định, thông thường là giao nộp cho thường trụ xử lý, cá nhân không được giữ lại cúng dường. Làm như vậy, không chỉ loại trừ những nhược điểm của việc nhận cúng dường cá nhân, mà còn tạo dựng một phong cách đạo tràng tốt đẹp.


Trả lời: Điều này là không hợp pháp. Tài sản thuộc về thường trụ có cơ quan quản lý của nó, người giữ chức vụ quản lý có quyền bảo vệ và bảo quản tài sản, nhưng không có quyền sử dụng. Nếu cần sử dụng tài sản cho cứu trợ hoặc bất kỳ tình huống nào, phải báo cáo lên cấp trên và được phê duyệt mới có thể thực hiện. Hoặc sau khi cấp trên đánh giá và được chấp nhận, thậm chí dựa trên lợi ích công cộng của thường trụ mà chỉ định bạn thực hiện, thì mới có thể làm như vậy.

Vì vậy, cái gọi là “thường trụ” là ý kiến của tất cả mọi người, mọi thứ đều thuộc sở hữu của công chúng, phải được sự đồng ý của mọi người, không thể tự mình quyết định. Người quản lý tài chính có nhận thức này, sẽ không có sai sót trong việc thực hiện.


Trả lời: Người đang làm, nhân quả đang quan sát; người không biết, nhưng nhân quả biết, Phật Bồ Tát biết, vì vậy “Nếu muốn người không biết, trừ khi mình đừng làm”. Bạn không thể nghĩ rằng “Tôi làm điều này mà không ai nhìn thấy, không ai biết”, thực ra mọi việc trên thế gian đều có nhân quả, “Khi nhân duyên gặp gỡ, quả báo sẽ tự chịu”, vẫn sẽ có người biết.


Trả lời: Bất kỳ tài sản công nào không thuộc quyền sử dụng hợp pháp, chúng ta không nên sử dụng, đặc biệt là người đã thọ giới phải thận trọng hơn trong việc này. Nhưng như việc cá nhân phơi nắng, hít thở không khí, đi dạo trong công viên, đi trên đường, đây là những tài nguyên công cộng, có thể sử dụng thoải mái.

Đối với các tài sản thuộc về tư nhân, nếu không có sự đồng ý của chủ sở hữu mà sử dụng, đó là vi phạm giới luật “lấy không được cho”. Vì vậy, chúng ta tuyệt đối không được sử dụng. Nếu người khác mời bạn ăn cơm, đôi đũa, bát cơm là họ đưa cho bạn, tất nhiên bạn có thể ăn; họ mời bạn ngồi, chiếc ghế cũng do họ mang đến cho bạn, tất nhiên bạn có thể ngồi xuống. Do đó, bất cứ thứ gì thuộc sở hữu của người khác, chỉ cần có sự đồng ý của họ, bạn có thể sử dụng.


Trả lời: Trong bốn giới luật căn bản của Phật giáo là sát, đạo, dâm, vọng, giới đạo là khó giữ nhất vì người thường không ý thức được rằng mình đã phạm phải.

Trước đây có một gia đình, con của họ ở trường học ăn trộm một cái bút của bạn cùng lớp, giáo viên nói với phụ huynh rằng “Con của anh chị có hành vi trộm cắp, phải chú ý”. Người cha nghe xong, nổi giận đùng đùng, gọi con đến và tát mấy cái, nói “Sao mày có thể ăn cắp bút của người khác ở trường? Nếu mày cần bút, ba có thể mang cả nắm về từ cơ quan”. Mang cả nắm bút từ cơ quan về, liệu đó không phải là tham nhũng sao? Điều này liệu có hợp lý không? Anh ta không biết đó là tham nhũng, đó là “lấy không được cho”.

Trong chùa cũng vậy. Những vật dụng thuộc sở hữu công cộng, của thường trụ không chỉ không được xâm phạm mà còn không được xâm phạm tài sản của người khác, chỉ cần xâm phạm là vi phạm giới đạo, tất nhiên mức độ có thể nặng hoặc nhẹ. Nhưng nếu không để ý đến những vi phạm nhỏ này, thành thói quen, dần dần sẽ vi phạm giới đạo nghiêm trọng.


Trả lời: Tôi nghĩ là không thể. Tại sao vậy? Nhà thế tục là của cá nhân, thường trụ là của thập phương. Giống như một chính phủ, tiền của chính phủ là của công, không thể vì tôi làm việc trong chính phủ, gia đình tôi nghèo mà tự tiện lấy tiền giúp đỡ họ, điều này là hoàn toàn không thể, vì vậy công và tư phải phân biệt rõ ràng.

Nếu gia đình thế tục của bạn cần cứu trợ, tôi nghĩ, trước hết bạn phải thể hiện trách nhiệm, chính trực trong công việc hàng ngày, sẽ có người trong thường trụ nhận thấy bạn là người tốt, rất ngay thẳng, nhưng gia đình bạn lại nghèo khó, lúc đó sẽ có người sẵn lòng giúp đỡ, hoặc có người thay mặt bạn báo cáo lên trên, xin hỗ trợ, trong tình huống như vậy thì hợp pháp.

Trong trường hợp không thể tránh khỏi, mặc dù có những người bạn đồng đạo sẵn sàng giúp đỡ bạn, nhưng việc cá nhân liên quan đến gia đình sẽ không tốt cho bản thân, vì vậy đây là sự khôn ngoan trong việc làm người, bạn nhất định phải nắm vững nguyên tắc này.






Blog Phật Pháp


Ngày thất tịch là ngày gì ? Những Điều Thú Vị Về Thất Tịch Mà Bạn Chưa Biết.

Lễ tình nhân Thất Tịch năm nay sắp đến! Bạn có biết nguồn gốc, phong [...]

Những Lời Dạy Của Phật: Chìa Khóa Để Sống An Nhiên và Hạnh Phúc

Khám phá bí mật của hạnh phúc và an nhiên qua những lời dạy sâu [...]

Giải Mật Thiên Long Bát Bộ: Những Vị Hộ Pháp Huyền Bí Trong Phật Giáo.

Theo kinh điển Đại thừa, khi Đức Phật thuyết pháp cho các Bồ Tát và [...]

Giải thích toàn diện về “Đả Phật Thất”, người học Phật nhất định phải xem!

Đánh Phật Thất là một phương pháp tu tập trong Phật giáo, được nhiều người [...]

Sự tích Ngưu Lang Chức Nữ mùng 7/7 và ngày Thất tịch.

Hôm nay là ngày mồng 7 tháng 7 âm lịch, cũng chính là ngày lễ [...]

Phật pháp vấn đáp : Nhân Duyên Quả Báo Cuộc Đời không ai tránh khỏi.

Nhân quả là quy luật phổ biến của vũ trụ, chi phối mọi sự sinh [...]

Pháp khí là gì – ý nghĩa pháp khi trong Đạo Phật.

Chùa chiền có nhiều loại pháp khí khác nhau, phổ biến nhất là các loại [...]

An cư kiết hạ là gì ? ý nghĩa của An Cư Kiết Hạ

An Cư là đời sống giới luật truyền thống. Thời kỳ đầu, các tăng ni [...]

Buông bỏ phiền não hồi quy tự tánh, Hãy sống cuộc sống Chân, Thiện, Mỹ và Trí Tuệ.

Hôm nay (ngày 8 tháng 2 âm lịch) là ngày kỷ niệm Đức Phật Thích [...]

Đạo Phật Có Phải là tôn giáo không ? Rất nhiều người hiểu sai.

Phật giáo là một nền giáo dục, không phải là một tôn giáo: Theo Từ [...]

Phật giáo: Một nền giáo dục đa văn hóa đạo đức và hoàn hảo nhất đức hạnh

Phật giáo là một giáo dục của trí tuệ. Đó là một giáo dục hoàn [...]

Châu Nhuận Phát Quyên Góp Toàn Bộ Tài Sản: Câu Chuyện Cảm Động Phía Sau Quyết Định Lớn

Hành động quyên góp toàn bộ tài sản của Châu Nhuận Phát đã gây xúc [...]

Cách xử lý Tượng Phật cũ, Tranh Phật cũ, vật phẩm có ảnh Phật, Máy Niệm Phật hư như thế nào ?

Tượng Phật, Tranh Phật Cũ, Máy Niệm Phật có in hình Phật và các vật [...]

lợi ích khi mở máy niệm Phật, kinh Phật và giảng Pháp nhiều người chưa biết

Chúng ta hôm nay học Phật, học Phật cần giữ tâm Bồ Đề, hành đạo [...]

Thầy Thích Pháp Hòa Viết Sách về chia sẻ từ trái tim.

Cuốn sách “Chia sẻ từ trái tim – 50 bài giảng nhân quả thiết thực [...]

Chú ý : Nếu thường xuyên niệm Phật, áp dụng phương thức này sẽ không tốt đối với bạn.

Phương pháp niệm Phật làm sao có thể cứng nhắc được? Việc thiết lập các [...]

Vì sao nên mở tiếng niệm Phật trong nhà cả ngày và đêm ? 98% người vẫn chưa biết điều này.

Trong nhà mở máy niệm phật , máy nghe kinh, máy nghe giảng pháp lợi [...]

Tu là gì ? làm gì cho bớt khổ

Hỏi : Trong cuộc sống con thường được khuyên bảo tu cho bớt khổ, thế [...]

Giải đáp thắc mắc: “Bồ Tát Quan Thế Âm là Nam hay Nữ” – Thầy Thích Pháp Hòa

Như quý vị đã thấy Bồ Tát Quan Âm dưới cái dáng của người Nữ [...]

Địa chỉ bán máy niệm phật 5 bài tại TPHCM làm từ thiện

Phụ Kiện Song Phát chuyên cung cấp máy niệm phật để làm từ thiện trong [...]

Nam mô a di đà phật có nghĩa là gì

Nội dung bài viếtNhân quả tuần hoàn có số định sẵn? Nhân quả là quy [...]

Vì sao tổ bồ đề đạt ma quẫy cây gậy chỉ có một chiếc giầy

Nội dung bài viếtNhân quả tuần hoàn có số định sẵn? Nhân quả là quy [...]

Điểm khác biệt giữa người khôn và người trí tuệ

Nội dung bài viếtNhân quả tuần hoàn có số định sẵn? Nhân quả là quy [...]






Danh Mục Pháp Âm Phật Giáo




Máy Niệm Phật Đeo Cổ

Đài Niệm Phật Mini đeo cổ HY-88

135,000
-13%
Original price was: 320,000₫.Current price is: 280,000₫.
-18%
Original price was: 190,000₫.Current price is: 155,000₫.

Máy Niệm Phật Trong Nhà

Máy niệm phật mini 5 bài

70,000
-7%
Original price was: 300,000₫.Current price is: 280,000₫.




-29%

Đèn Thờ Niệm Phật

Đèn hoa sen niệm phật

Original price was: 260,000₫.Current price is: 185,000₫.