Hôm nay (ngày 8 tháng 2 âm lịch) là ngày kỷ niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ giới, chúng con quyết tâm ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, phóng sinh và làm mọi công đức cho tất cả chúng sinh trong cõi hư không. Pháp Giới, và thành tâm cống hiến cuộc đời mình cho:
- Hoà bình thế giới, hoà bình dân tộc và thịnh vượng
- Loại bỏ tai họa và tránh tai họa, tăng phước và tăng trí tuệ
- Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
- Nam Mô A Di Đà
- Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Xuất Gia Tu Đạo
Thích Ca Mâu Ni Phật xuất thân là một vị hoàng tử, sống trong sự giàu có của hoàng gia. Thỉnh thoảng, khi ra ngoài dạo chơi, Ngài thấy hiện tượng sinh lão bệnh tử, từ đó nảy sinh ý nghĩ về những vấn đề lớn mà tất cả chúng sinh không thể tránh khỏi.
Làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Đây là một câu hỏi lớn, vì vậy năm mười chín tuổi, Ngài rời khỏi gia đình để học đạo.
Vào thời điểm đó, Ấn Độ là một quốc gia tôn giáo, và hầu như tất cả các tôn giáo này đều tu thiền định. Kinh Phật nói về tứ thiền bát định, đây là những pháp tu của đạo Bà La Môn mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã tiếp nhận và coi đó như là thiền định cơ bản của Phật môn. Thích Ca Mâu Ni Phật đã tu luyện tứ thiền bát định rất thành thục, trong trạng thái định, Ngài hoàn toàn hiểu rõ về những điều trong lục đạo luân hồi. Nhưng lục đạo từ đâu mà đến? Tại sao lại có lục đạo? Ngoài lục đạo ra còn có thế giới nào khác không?
Ngài cầu học mười hai năm, hoàn toàn học qua các tôn giáo của Ấn Độ, cũng học qua tất cả các phái triết học của Ấn Độ. Nhưng những vấn đề này, dù là học thuật hay tôn giáo, đều không có cách giải quyết, vì vậy ba mươi tuổi Ngài từ bỏ việc tham học, vào sâu hơn trong thiền định, thâm nhập đến đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính, tất cả các vấn đề đều được giải quyết hoàn toàn, thông suốt và minh bạch. Lúc này Ngài bắt đầu giảng dạy.
Đã Thành Phật Từ Lâu
Thế Tôn trong kinh điển thường nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta vốn là Phật, hiện tại tại sao không phải? Vì chúng ta có phiền não, chướng ngại tự tính. Phiền não vô lượng vô biên, tóm lại không ngoài ba loại lớn: loại thứ nhất là vô minh, Kinh Hoa Nghiêm gọi đó là vọng tưởng; loại thứ hai là phân biệt, trong giáo lý Đại Thừa gọi nó là trần sa phiền não, ý là phân biệt quá nhiều, quá phức tạp, vô lượng vô biên, như trần sa, không thể đếm xuể; loại thứ ba là chấp trước, cũng gọi là kiến tư phiền não. Chấp trước cái gì? Đối với tự tính hay hiện tượng, tất cả đều nhìn sai, nghĩ sai, từ đó tạo ra nghiệp ác; tạo nghiệp thì có quả báo, tạo thiện nghiệp sinh ba đường lành, tạo ác nghiệp sinh ba đường ác, lục đạo luân hồi là như vậy mà ra.
Nếu kiến tư phiền não đoạn rồi, tức là đối với chân vọng, chân là tính, vọng là tướng, đối với tính tướng thật sự thấy rõ, thấy minh bạch, không sai lầm, thì lục đạo không còn nữa. Lục đạo là từ những nhìn nhận sai lầm, ý nghĩ sai lầm mà biến hiện ra, giả không thật, như giấc mộng, bọt nước, bóng nắng. Đối với tất cả pháp thế gian và xuất thế gian không còn chấp trước, thì có thể ngay lập tức vượt qua lục đạo.
Kiến hoặc, tư hoặc cũng là vô lượng vô biên, Phật vì để giảng kinh dạy học dễ dàng, nên tổng kết thành mười loại lớn. Tư tưởng sai lầm tóm gọn trong năm loại: tham, sân, si, mạn, nghi; cách nhìn sai lầm cũng có năm loại: thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến, tà kiến. Mười loại lớn này, nếu chúng ta có khả năng buông bỏ cùng một lúc, thì sẽ chứng đắc quả A La Hán. Không thể hoàn toàn buông bỏ, buông bỏ từng phần, dần dần buông bỏ, thì sẽ có thứ bậc.
Vì vậy, Tiểu Thừa có bốn quả bốn hướng tám thứ bậc, buông bỏ bao nhiêu, có thể thăng tiến bấy nhiêu. Đại Thừa cũng vậy, Đại Thừa có năm mươi mốt thứ bậc, thực sự có người có khả năng buông bỏ năm mươi mốt thứ bậc cùng một lúc, thì người đó sẽ thành Phật. Đó là ai? Thích Ca Mâu Ni Phật. Tại sao chúng ta có thể phán đoán Ngài đã đạt đến quả vị tối thượng? Bởi vì trong Kinh Phạm Võng, Phật nói: Ngài đã thành Phật từ lâu rồi, lần này đến Trái Đất biểu hiện là lần thứ tám nghìn, nói cách khác, Phật thường đến, ứng với thân nào để độ thì hiện thân đó, Ngài rất tự tại, không có phân biệt, không có chấp trước.
Phật Bồ Tát biểu hiện cho chúng ta thấy, chúng ta cần lưu ý, nếu thực sự hiểu rõ, có thể ngay lập tức buông bỏ, có thể làm được. Không làm được, là có chướng ngại, chướng ngại lớn nhất là tình chấp, tình chấp là phiền não chướng; chướng ngại thứ hai là sở tri chướng, hoàn toàn buông bỏ thì thành Phật.
Thân Hành Ngôn Giáo
Thích Ca Mâu Ni Phật biểu hiện lại tám tướng thành đạo chính là biểu hiện, biểu hiện là thân giáo, nói là ngôn giáo. Thích Ca Mâu Ni Phật có thể từ bỏ, Ngài có thể từ bỏ cả ngôi vị vua. Thế gian nói, giàu sang không gì bằng thiên tử, giàu có bốn bể, quý là đế vương. Con người dùng đủ mọi cách để đoạt được vị trí này, cầu không được. Ngài có sẵn ngôi vị vua, lại từ bỏ nó, xuất gia, ôm bát đi khất thực, đó chính là biểu hiện lại cho chúng ta thấy. Chư Phật xuất hiện ở thế gian đều hiện ra tướng này, Bồ Tát thì không nhất định, Phật nhất định thị hiện sinh ra trong hoàng gia, từ bỏ giàu sang mà xuất gia, mới có thể khơi dậy niềm tin của con người, làm cho người ta suy nghĩ, phá mê khai ngộ.
Con người trong cuộc đời quyết định là theo đuổi hạnh phúc mỹ mãn, cái gì là hạnh phúc mỹ mãn? Xuất gia là hạnh phúc mỹ mãn, Phật làm gương cho chúng ta. Người khác cho rằng giàu sang là hạnh phúc mỹ mãn, không phải vậy, trí tuệ, đức hạnh, thần thông, đạo lực viên mãn, đó mới là hạnh phúc thật sự. Ông Phương Đông Mỹ nói rằng, “Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người.”
Một hành động từ khi sinh ra đến khi già chết của Phật, suốt đời đều là mẫu mực, tấm gương cho chúng ta. Đem toàn bộ Phật pháp thực hiện trong đời sống, đem lý luận, phương pháp, cảnh giới mà Phật pháp giảng giải, biểu diễn hoàn toàn trong đời sống, tất cả đều được thọ dụng, tuyệt đối không phải nói huyền bí, không phải huyền học, mà là một cuộc sống thực sự, cuộc sống chân, thiện, mỹ, huệ.
Giáo Học Là Trước Hết
Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, tại sao giảng pháp bốn mươi chín năm không gián đoạn? Có thể thấy việc này rất quan trọng. Bởi vì tu hành không khó, khó ở đâu? Khó ở đoạn nghi sinh tín. Nếu không làm rõ tất cả đạo lý, tất cả sự thật thế gian và xuất thế gian, chúng ta sẽ không hết lòng tin tưởng, cũng không có cách nào để y giáo phụng hành.
Phật bốn mươi chín năm giảng dạy, không ngoài việc giảng rõ, giải thích rõ ràng đạo lý của vũ trụ nhân sinh, sự thật, sau đó dạy chúng ta tự mình tu học, tự mình chứng nghiệm. Vì vậy, công việc quan trọng nhất của Phật môn chính là giáo học. Muốn đoạn trừ những phiền não tập khí từ vô thủy kiếp đến nay, thì cần phải dùng pháp lực mạnh mẽ của Phật pháp để ngày đêm huân tu mới có thể đạt được.
Pháp Môn Đệ Nhất
Tất cả chư Phật Như Lai, bất luận thị hiện thành Phật ở quốc độ nào, mục đích chính đều là tuyên dương Tịnh Độ. Tại sao? Pháp môn niệm Phật thực sự là phổ độ ba căn, lợi độn đều thu nhận, bảo đảm chúng ta một đời không thối chuyển thành Phật. Đây là điều không có trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, trong vô lượng pháp môn cũng chỉ có một môn này. Bởi vì pháp môn này là khó tin, cho nên Phật trước tiên thuận theo chúng sinh, chúng sinh muốn học gì, Phật liền dạy điều đó, đến cuối cùng gặp khó khăn, học không nổi nữa, Phật mới khuyên tu pháp môn niệm Phật, quyết định sẽ thành tựu.
Vì vậy, mục tiêu cuối cùng của Phật là hy vọng chúng ta trong đời này thành Phật, thành Phật là quay về tự tánh, thành Phật đạt đại tự tại. Thực sự thành Phật thân tâm của chúng ta như thế nào? Thân tâm đều không còn. Đi đâu? Trở thành thường tịch quang, thường tịch quang chính là tự mình. Thường tịch quang ở đâu? Không nơi nào không có, không lúc nào không có, toàn bộ vũ trụ đều trong thường tịch quang. Đây thực sự chứng ngộ, toàn bộ vũ trụ với ta có quan hệ gì? Là một thể. Thập pháp giới y chánh trang nghiêm đều ở trong đó, mười phương tất cả chư Phật Như Lai cũng ở trong đó, hư không pháp giới ở trong đó, sơn hà đại địa ở trong đó, tất cả vạn pháp đều ở trong đó.